TÌM KIẾM

CON ĐƯỜNG TU TẬP CỦA ĐẠO PHẬT

18/04/2020Admin

TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC

GIÁO ÁN TU ĐẠO PHẬT

II.- GIAI ĐOẠN XUẤT GIA

(Tỳ khưu Từ Quang biên tập lời Trưởng Lão giảng trong mùa an cư 1997, được ghi âm ở 61 cassette 90)


CON ĐƯỜNG TU TẬP CỦA ĐẠO PHẬT

Bước đầu tu tập đạo Phật, chúng ta phải lưu ý có ba điều kiện rất quan trọng:

1.- Phàm con người ai ai cũng thân cận dục lạc, thân cận các bất thiện pháp ở trong thế gian này. Nói chung là phần nhiều con người sinh ra ở đời thường thích dục lạc thế gian cho nên ai cũng thân cận dục lạc. Và ác pháp thì ai cũng thân cận, ít thân cận thiện pháp. Vì vậy mà điều kiện quan trọng ở đây của đạo Phật là chúng ta phải nhận ra, phải thông hiểu những gì chưa thông hiểu.

Thông hiểu coi cái dục lạc đó như thế nào mà con người ai cũng thích thân cận. Như vậy chúng ta phải thông hiểu. Có thông hiểu chúng ta mới có thể bỏ được, còn nếu không thông hiểu thì chúng ta không thể bỏ được. Thí dụ một người ghiền thuốc hút hay thuốc phiện hoặc ghiền rượu mà họ biết rượu là tai hại, thuốc hút là tai hại, thuốc phiện là tai hại. Khi họ biết các loại đó tai hại cho cơ thể dễ sanh ra bệnh tật làm cơ thể đau khổ, họ biết nó tai hại như vậy thì họ bỏ. Còn họ biết các thứ đó không tai hại thì chăc chắn họ sẽ không bỏ. Muốn được như vậy thì chúng ta phải có sự thông hiểu, mà muốn có thông hiểu thì chỉ có chánh pháp mới dạy cho chúng ta có sự thông hiểu đó. Không có chánh pháp, chúng ta khó hiểu được các dục lạc của thế gian, các bất thiện pháp của thế gian. Bởi vậy Thầy thấy các thầy còn trẻ tuổi thích thân cận với phái nữ, họ cứ mãi thích tìm bên phái nữ, mà tìm nó thì nó sẽ đem lại cho họ các tai hại. Chúng ta nên tránh, cái li dục của chúng ta là nên tránh, đừng lãng vãng đến nó.

Thầy nhắc lại ông Ananda ngày xưa hỏi Phật "Thưa Thế tôn, chúng con là những tu sĩ trẻ tuổi, đối với phái nữ chúng con phải làm sao", thì ông Phật nói đừng có gần. Rõ ràng là ông Phật ngăn ngừa chúng ta đừng gần. Ông Ananda hỏi "nếu chúng con gặp thì phải làm sao", đức Phật nói đừng nhìn nó. Có gặp thì đừng có nhìn. Ông Ananda hỏi "Nếu chúng con lở nhìn thì làm sao", thì đức Phật nói đừng nói chuyện. Lở đã nhìn thì đừng nói chuyện. Ông Ananda hỏi tiếp "Lở chúng con nói chuyện thì làm sao", đến cuối cùng thì đức Phật bảo phải xem họ như chị, như mẹ, chỉ còn mức đó là cuối cùng. Đây là có bệnh tật thì chỉ còn có uống thuốc mà trị thôi. Lúc đó có vua Ba-Tư-Nặc (Pasenadi) ngồi nghe thì nhà vua hỏi "Như các thầy đã xuất gia rồi, đã li gia cắt ái rồi, thì coi tất cả nữ giới như chị em ruột, như mẹ của mình được, còn chúng con là cư sĩ thì làm sao nghĩ được như vậy", đức Phật nói chỉ còn quán bất tịnh.

Đầu tiên thì chúng ta không nên gặp. Khi biết đi tu rồi thì tuổi trẻ nên xa lìa phụ nữ đi để khi chúng ta tu rốt ráo rồi thì chúng ta có gặp phụ nữ cũng chẳng lôi cuốn chúng ta được, còn khi chúng ta mới tu mà chúng ta gặp thì nó xỏ mũi dẫn chúng ta đi, như con trâu bị xỏ mũi. Nhưng các thầy trẻ tuổi không thấy cái đó.

Bài kinh này là không thân cận dục. Trong cái dục đó không phải chỉ có sắc dục, ái dục mà có nhiều thứ dục. Cái dục nào cũng có lạc, nhưng các lạc đó cấp thời, cho nên nhà vua nói với đức Phật như vầy "Chúng con là vua chúa, là những người có đủ ngủ dục lạc của thế gian, được hưởng đầy đủ không thiếu gì cả". Do đó Phật hỏi nhà vua vậy các dục lạc nhà vua hưởng đó có thể kéo dài một đêm một ngày được không. Nhà vua nói đâu có được. Nghĩa là khi chúng ta ăn một món ăn ngon, khi nuốt qua khỏi cổ thì hết cảm thấy ngon rồi, thì đâu còn lạc ở đó nữa. Đức Phật mới nói hỉ lạc của li dục, li bất thiện pháp kéo dài một ngày một đêm vẫn được, vẫn không gián đoạn. Còn cái dục lạc trong pháp thế gian chỉ có một thoáng chốc, không thể kéo dài một đêm một ngày được.

Đức Phật nói hỉ lạc của li dục, li bất thiện pháp kéo dài một ngày một đêm, hai ngày hai đêm, ba ngày ba đêm,... cho đến bảy ngày bảy đêm không gián đoạn. Như vậy khi chúng ta li dục, li bất thiện pháp thì có trạng thái giải thoát, có hỉ lạc làm cho chúng ta sống suốt một thời gian rất dài mà không dừng. Còn cái dục lạc của thế gian thì ngay đó có dục lạc rồi mất, nó có thể đem lại đau khổ cho chúng ta chứ nó không kéo dài dục lạc. Đức Phật đã giảng cho thấy cái dục lạc thế gian quá ngắn ngủi, mà luôn luôn có sự khổ đau sau đó, kề cận với nó. Cho nên ở đây phàm con người, ai ai cũng thân cận dục lạc, thân cận bất thiện pháp ở thế gian.

Cho nên điều thứ nhất là phải như lí tác ý (ám thị, pháp hướng tâm) phải nhắc đi nhắc lại ám thị tâm của mình để chứng được chánh pháp, chứng được lí của pháp đó và nương theo pháp đó mà hằng ngày chúng ta sống, gọi là tùy pháp. Vì vậy khi chúng ta biết được chánh pháp, hiểu được chánh pháp thì chúng ta thường phải như lí tác ý không có một thời gian gián đoạn thì người này sống không thân cận dục lạc. Nếu để tâm có kẽ hỡ thì tâm sẽ chạy tìm dục lạc của thế gian: thân cận người này, thân cận người kia, nói chuyện này, nói chuyện kia, làm cho tâm luôn luôn bị dính mắc trong dục lạc của thế gian, rồi từ đó khởi ra các ác pháp làm tâm luôn luôn dính mắc trong ác pháp không rời.

Nhờ sống không thân cận dục lại, không thân cận bất thiện pháp thì an lạc của cuộc sống khởi lên, long vui mừng sung sướng khởi lên, thấy rõ con đường giải thoát của đạo Phật và đối với cuộc sống hằng ngày không có sự va chạm làm cho tâm hồn bị đau khổ, tức là mình nương vào chánh pháp không thân cận dục, không thân cận ác pháp thế gian nữa thì tâm của mình sẽ thoát khổ dù có va chạm trong cuộc sống thế gian. Đó là con đường tắt đưa đến an lạc hạnh phúc xuất thế gian của đạo Phật.

Đầu tiên mới vào đạo Phật thì chúng ta nên hiểu biết Phật pháp, mà đã hiểu biết Phật pháp thì không nên thân cận dục lạc, không nên thân cận với ác pháp. Đó là điều tiên quyết mà người tu phải hiểu để không thân cận nó, do đó chúng ta sẽ li nó được, sẽ cắt đứt nó được, vì vậy mà ở đây Thầy dạy các thầy sống độc cư, sống cô đơn, sống một mình, sống trầm lặng. Cho nên chúng ta phải hiểu đó là một cách chúng ta sống không thân cận với dục lạc, không thân cận với ác pháp. Khi quý thầy sống độc cư trong thất, không thân cận với ai thì làm sao có ác pháp, cho nên trong tu viện, Thầy nêu ra quý thầy phải sống độc cư, trầm lặng một mình, là quý thầy đã sống không thân cận dục lạc thế gian, đã không thân cận ác pháp, thì quý thầy đã tự cứu quý thầy rồi. Từ cuộc sống đó quý thầy sẽ đi tới các pháp khác, do đó quý thầy được giải thoát. Không phải bấy nhiêu mà đủ, nhưng đây chỉ là bước đầu tiên để đem lại hạnh phúc, đem đến sự giải thoát.

Cho nên người sống độc cư được là người đã không thân cận dục lạc, đã không thân cận ác pháp. Như vậy chỉ một pháp độc cư cũng đã thấy Thầy dạy đúng với Phật pháp rồi. Bởi vì Phật dạy chúng ta ở đây là không thân cận dục lạc, không thân cận ác pháp, mà Thầy chỉ dạy là sống độc cư, như vậy độc cư là không thân cận dục lạc, không thân cận ác pháp.

Thứ hai, vì con người chưa được trau dồi thân miệng ý nên thân hành chưa được vô lậu, chưa được an tịnh; khẩu hành chưa được vô lậu, chưa được an tịnh; ý hành chưa được vô lậu, chưa được an tịnh. Đức Phật nói khi chúng ta sống độc cư rồi, đã không thân cận với dục lạc rồi, đã không thân cận với các ác pháp rồi, thì chúng ta phải biết các thân hành, khẩu hành, ý hành chúng ta chưa trau dồi nó, cho nên hễ hở một chút là chúng ta sanh khởi ác pháp ở trong thân hành, khẩu hành hay ý hành của chúng ta. Mục đích lộ trình nhân quả chúng ta đang đi thì quý thầy thấy nó ở đâu? Ở ba cái hành: thân hành, khẩu hành, ý hành này. Chính ba hành này mới tạo nên nhân, mới tạo ra quả, chứ nếu không có thì làm sao tạo ra nhân, tạo ra quả được. Ở đây đức Phật dạy rất rõ: thứ nhất là chúng ta hãy sống tránh lộ trình mà nó có thể sanh ra nhân quả, tức là dục lạc và ác pháp, tức là chúng ta sống độc cư, nhưng chúng ta sống độc cư mà không chịu trau dồi thân miệng ý của mình thì phỏng chừng mình có đi đến cứu cánh không? Không đi đến được. Cho nên phải trau dồi ba hành động thân khẩu ý của mình để chấm dứt nhân quả.

Quý thầy đâu hiểu rằng chúng ta là những con người đang sống trong bầu trời của nhân quả, nhân quả đang phủ đang phủ trùm mọi người mà quý thầy không chịu vượt ra khỏi bầu trời này thì quý thầy luôn luôn bị chi phối trong luật nhân quả.

Mọi người biết nhân quả sanh mình ra, biết từ nhân quả đó mình chết đi mình sẽ trở về nhân quả, chúng ta bị bao vây bởi nhân quả. Chúng ta không chịu tìm cách ra khỏi nhân quả thì làm sao được liễu sanh thoát tử. Nhân quả muốn chúng ta chết thì chúng ta phải chết, muốn chúng ta sống thì chúng ta phải sống, muốn chúng ta sanh ra thì chúng ta phải sanh ra chứ chúng ta chưa có quyền làm chủ được nó. Một người tu theo đạo Phật là phải chấm dứt nhân quả, làm chủ nhân quả. Làm chủ nhân quả như thế nào? Người ta chửi mà mình không giận là làm chủ nhân quả, còn nếu giận là mình không làm chủ nhân quả. Khi thấy một vật gì mà ham thích, đó là chưa làm chủ nhân quả, còn mình không thích là làm chủ nhân quả.

Giả dụ như thân của quý thầy đang có những thọ khổ như bịnh tật quá đau khổ nhưng quý thầy làm chủ nhân quả thì quý thầy chẳng bao giờ cảm thấy đau, khi quý thầy chưa làm chủ nhân quả thì quý thầy thấy đau khổ. Vì vậy chúng ta muốn làm chủ nhân quả thì phải hiểu nó, phải biết nó. Chúng ta là những người đang sống trong lộ trình của nhân quả, nhân quả đang chi phối, thay đổi từng phút từng giây diễn biến liên tục trong thân của chúng ta và của thế giới này, thế mà chúng ta không chịu hiểu nhân quả nên không chịu trau dồi ba hành động này của chúng ta.

Bắt đầu chúng ta trau dồi gì trước tiên? Chúng ta phải trau dồi thân hành, khẩu hành và ý hành vì hiện giờ nó rất thô lậu, vì sao vậy? Vì mở miệng ra là nó làm khổ mình khổ người. Hành động của chúng ta ở thân, có hành động thì có giết hại, có chúng sanh bị giết, bị chết. Hành động đi mà chúng ta đạp lên chúng sanh có phải là làm chết chúng sanh không. Phật dạy tứ vô lượng tâm mục đích là để chúng ta tu tâm từ tâm bi tâm hỉ tâm xả, để luôn luôn có ý tứ trên đường chúng ta đi, ở hành động chúng ta làm, trong ý chúng ta nghĩ, trong lời nói chúng ta nói.

Sau một thời gian được nghe thánh pháp, theo thánh pháp để trau dồi thân hành khẩu hành và ý hành. Hiểu được thánh pháp đúng như thế, chúng ta hiểu đó là con đường chân thật đưa đến giải thoát, cho nên từ đó chúng ta trạch pháp ra như pháp đó, như lí đó mà tác ý ra, hằng ngày chúng ta thực hiện trong cuộc sống.

Như vậy ở đây Phật dạy chúng ta như thế nào: theo thánh pháp đó mà tu định vô lậu để trau dồi thân hành, khẩu hành và ý hành của chúng ta, hằng ngày phải liên tục tu tập để nương vào pháp đó, sống theo pháp đó, mà ở đây Phật gọi là tùy pháp và chúng ta phải chứng đắc được cái pháp đó, tức là thấm nhuần vào pháp đó. Thánh pháp đó làm cho thân khẩu ý chúng ta có những oai nghi phạm hạnh rất đầy đủ, nghĩ ra điều gì, nói điều gì, hành động điều gì là đem lại sự an vui cho mình cho người, không làm khổ mình khổ người. Đó là chúng ta nhờ được thánh pháp. Nhờ vậy mà chúng ta tu tập. Qua sự siêng năng tu tập như vậy, chúng ta thấy được đời sống của chúng ta, tâm hồn chúng ta được giải thoát hoàn toàn an nhiên. Do công phu tu hành như vậy, thân hành thô lậu được an tịnh, khẩu hành thô lậu được an tịnh, ý hành thô lậu được an tịnh; an lạc khởi lên, hoan hỉ khởi lên hơn cả an lạc và hoan hỉ trước kia. Đó là con đường tắt thứ hai đưa đến an lạc của đạo Phật. An lạc này hơn sự an lạc của lộ trình thứ nhất mà chúng ta tu tập.

Lộ trình thứ nhất, Phật dạy chúng ta tu tập như thế nào, như lí tác ý như thế nào? - Chúng ta xa lìa lòng ham muốn của chúng ta, xa lìa các ác pháp. Còn lộ trình thứ hai, Phật bảo chúng ta như thế nào? - Bảo chúng ta phải trau dồi miệng nói (khẩu hành),thân hành, và ý hành của chúng ta.

Chúng ta phải biết cách tu tập từng cái một, mới đầu chúng ta xa lòng ham muốn chưa hẳn hết đâu, xa ác pháp chưa hẳn hết đâu. Thân hành của chúng ta còn lung tung, ý hành của chúng ta còn lung tung, chưa hẳn là nó xa ác pháp đâu.

Bước qua giai đoạn hai, lộ trình thứ hai này chúng ta phải tu tập là phải trau dồi thân hành còn thô lậu, khẩu hành còn thô lậu, ý hành còn thô lậu của mình để cho nó không còn cái thô lậu đó nữa, do đó nó không còn nằm trong ác pháp, không còn nằm trọn vẹn trong lòng ham muốn của chúng ta nữa. Do đó sẽ khởi lên sự an lạc. Sự an lạc đó hơn sự an lạc ở lộ trình thứ nhất mà chúng ta tu tập. Như vậy giai đoạn thứ hai là tu tập thân, miệng, ý hành của chúng ta.

Phàm người đời không như thật biết đây là thiện, mà cũng không như thật biết đây là ác, vì vậy người ta mới lầm lạc và vì sự lầm lạc đó nên mới không xa lìa ác pháp được. Người được nghe thánh pháp rồi nên người ta phân biệt được đây là ác, đây là thiện, cho nên Phật mới dạy: “Phàm người đời không như thật biết đây là thiện, không như thật biết đây là bất thiện, không như thật biết đây là có tội, đây là không tội, đây cần phải thuận theo, đây cần phải tránh né, đây là họa, đây là hạ liệt, đây là cao thượng, đây là đúng, đây là sai, đây là tai họa, đây là không tai họa”; chúng ta không thấy được những cái này. Khi gặp tai họa chúng ta chịu đựng chứ không biết làm sao để tránh né, cho nên Phật dạy chúng ta phải có sự sáng suốt để nhận định đây là thiện, đây là bất thiện, đây là có tội, đây là không tội, đây cần phải thuận theo đây cần phải tránh né không được nhào vô, đây là họa, đây là hạ liệt, đây là cao thượng, đây là đúng đây là sai, đây là tai họa đây là không tai họa, mình làm sao thấy được những cái này là đã thấy được con đường nhân quả. Thấy được con đường nhân quả tức là mình li được các ác pháp, mà li được các ác pháp tức là các mầm dục của mình nó phải li.

Nhắc lại các sự trau dồi của chúng ta: đầu tiên chúng ta phải tìm cách xa lìa sự ham muốn của mình, trước mọi vật phải xa lìa lòng ham muốn và không được thân cận các ác pháp. Thứ hai là trau dồi thân miệng ý của chúng ta. Trong khi trau dồi như vậy chúng ta cần phải học, cần phải thông hiểu đây là thiện, đây là không thiện; đây là ác, đây là không ác; đây là tội, đây là không tội;... mình phải phân biệt cho rõ ràng các cái đó.

Muốn phân biệt như vậy, chúng ta phải học thập thiện; không học thập thiện thì ít ra chúng ta cũng phải học nhân quả. Bộ sách nhân quả bây giờ chưa có ai viết, người ta viết nhân quả bằng cách mê tín thì có, nhưng viết nhân quả đúng theo sự thật của luật nhân quả hoàn toàn thì chưa ai viết. Cho nên ở đây Thầy thấy mình cũng có một trách nhiệm là một vị tu sĩ từng sống ở trên lộ trình của nhân quả mà chưa viết ra.

Các con cũng đã thấy Thầy đang sống trong luật nhân quả, cho nên trước nhân quả Thầy vẫn thấy tâm Thầy bất động, không bao giờ dao động trước nhân quả. Thầy làm một cái gương đứng trước lộ trình nhân quả mà tâm vẫn bất động, Thầy không còn giận hờn ai hết là vì đã thấy nhân quả. Còn các con không thấy nhân quả cho nên hở chút là có đau khổ trong lòng tức khắc.

Người ta nói nặng nhẹ, mắng chưởi mình đều ở trên lộ trình nhân quả, chứ ngoài lộ trình thì làm gì có chuyện này được. Đã thấy nhân quả thì làm sao tâm mình còn giận hờn được, cho nên rất an vui. Chúng ta do nhân quả sanh ra, sống trong nhân quả, thế mà muốn trốn nhân quả là trốn ở chỗ nào. Vậy mà con người luôn luôn muốn trốn nhân quả. Thầy thấy thật là vô lí. Cũng như mình ở trong nhà này mà trốn cái nhà này là là trốn làm sao, trốn ở chỗ nào. Nó đậy trên các cái này mà nói tôi núp dưới bàn tôi trốn cái nhà. Trốn cái gì khi cái bàn ở trong nhà. Cho nên trốn đâu cũng không khỏi nhân quả hết.

Vì vậy khi biết mình đang ở trong nhà nhân quả thì cứ đương nhiên ngồi giữa nhà nhân quả, thì làm gì có đau khổ sinh ra được. Như ông Phật ngồi trong nhà nhân quả, ông có buồn đâu, lúc nào cũng mĩm cười thì có gì đau khổ. Còn các con thì nhà nhân quả hơi rung rinh thì đã lo sợ. Đó là các con không thấy nhân quả. Còn Thầy đã biết đường đi, nước bước của nhân quả, Thầy cũng đang sống trong nhân quả nên không sợ.

Chúng ta đang có cái thân là thân nhân quả thì nó phải đau, cớ sao đau lại sợ đau. Thân đau thì mặc nó vì đó là thân nhân quả thì phải đau, đừng sợ đau. Người biết thân nhân quả, cho nên thân đau thì kệ nó, không rên, chết bỏ. Mình đã sanh ra trong nhân quả thì nhân quả làm gì thì làm, đâu phải mình làm sao mình sợ. Chết hay sống đều do nhân quả. Chúng ta đâu định đoạt số mệnh của chúng ta được. Chừng nào chúng ta làm chủ nhân quả thì chúng ta làm chủ định mệnh, thế mà khi nhân quả tới thì mình có phản ứng thì làm sao làm chủ được nhân quả. Đối với Thầy thì lúc nào tâm cũng như như bất động.

Cho nên các con phải thấy lộ trình đức Phật dạy chúng ta đi trên lộ trình nhân quả, sống trong nhân quả mà vượt ra ngoài nhân quả. Cũng như một bầy cá sa vào trong lưới mà chỉ có một con nhãy ra khỏi lưới. Con cá đó giỏi thật vì nó biết nó ở trong nhân quả nên đã tự một mình nó vượt ra khỏi lưới. Thầy cũng biết mình đang ở trong nhân quả, rồi tự mình Thầy vượt ra khỏi nhân quả. Các con có thấy không. Tại sao các không theo Thầy mà nhãy ra khỏi nhân quả, phải cố gắng mà nhãy chứ, phải vận dụng hết sức mình để vượt nhân quả chứ. Cho nên đối với Thầy tất cả mọi cái xẩy ra đều nằm trong nhân quả, Thầy không sợ gì hết. Có đau bệnh dù chết cũng không sợ. Bởi thân này là thân nhân quả thì có gì mà lo lắng săn sóc nó. Con người biết thắng nhân quả thì không bao giờ sợ nhân quả. Hôm qua Thầy trong lúc giảng có ho, nhưng nay đâu có ho. Vậy là Thầy chiến thắng nhân quả đó.

Cho nên làm người biết nhân quả thì không bao giờ sợ nó, vì vậy mà Phật dạy ở trong lộ trình này có ba điều kiện: thứ nhất biết mình nằm trong nhân quả; thứ hai là trau dồi nghị lực để chiến thắng hành động của nhân quả, bởi nhân quả hành động ở trong thân hành, khẩu hành, ý hành của chúng ta để nó đưa tới thiện và ác mà đưa chúng ta vào vòng luân hồi sanh tử của nó. Cho nên mình há sợ nó sao?

Đầu tiên đức Phật khéo léo dạy cho chúng ta biết cái dục. Mỗi con người đều do dục mới tạo thành nghiệp, mà tạo thành nghiệp tức là tạo ra nhân quả. Cho nên đức Phật dạy phải xa lìa, đừng thân cận cái dục này. Dục này nguy hiểm, nó là rắn độc, phải bỏ đi. Ác pháp là rắn độc, nó nguy hiểm, nó làm cho chúng ta khổ. Vậy như lí đó thường đặt niệm trước mặt, quán xét bỏ tâm dục ra đi, ham muốn gì cũng bỏ; muốn tốt, muốn xấu cũng bỏ hết. Đó là lộ trình thứ nhất ở nhân quả.

Lộ trình thứ hai do ba hành động nhân quả, chúng ta cũng phải dẹp nó luôn. Từ chỗ ba hành động này nó mới có nhân quả, chứ nếu không có thân khẩu ý hành chúng ta thì làm gì có nhân quả. Một người ngồi thiền miệng ngậm cứng ngắt nói đâu được thì làm gì có nhân quả, ý không khởi niệm gì hết thì làm gì có nhân quả, thân tréo chân ngồi như gộc cây làm gì có hành ở đâu được mà tạo nhân quả.

Khi ngồi thiền thì bảo ý thức hãy nằm ở tụ điểm, đừng nằm ở chỗ đau thì đâu thấy đau. Ý thức đừng nằm ở chỗ thọ thì thọ đâu tăng thêm. Đó là những điều kiện chiến thắng nhân quả.

Ở đây Thầy muốn nói ba hành động thắng nhân quả của Thầy, biết mình sửa soạn bị nhân quả phủ trùm mà không có đường nào ra khỏi nó hết thì hãy làm chủ nhân quả. Như người ta sanh ra ở trong bầu trời này mà cố chạy đông chạy tây để thoát khỏi thì làm sao thoát, cũng vẫn nằm trong bầu trời thôi, có ai chạy thoát ra khỏi bầu trời được không. Nhân quả như bầu trời đè phủ mình thì làm sao chạy thoát nhân quả. Mình ở trong bầu trời thì mình hãy làm chủ bầu trời đi. Cho nên một nhà khoa học nói nếu cho ông một điểm tựa và đòn bẩy thì ông sẽ bẩy quả địa cầu được.

Ở đây Thầy đã cho các con một tụ điểm. Nếu các con biết khéo giữ gìn tụ điểm này thì các con bẩy được nhân quả của các con, bẩy văng cái nhân quả, nghĩa là không còn nhân quả, nhân quả không còn bắt các con tuân phục lộ trình tái sanh luân hồi được. Các con không nghe lời Thầy nên không tạo được tụ điểm cho chính mình để tạo được điểm tựa bẩy tung vũ trụ. Khi mình bẩy văng bầu trời nhân quả thì nhân quả đâu có làm chủ được mình nữa. Như cái thân của Thầy mà muốn chết hồi nào thì Thầy chết là Thầy đã bẩy vũ trụ được rồi, đã thoát nhân quả rồi, có vậy Thầy mới bảo thân chết thì nó chết, chứ nhân quả sao làm chủ Thầy được. Các con chưa làm chủ được như Thầy thì phải ráng chứ, phải làm chủ vũ trụ nhân quả chứ, đừng để cho nhân quả đè mình.

Bây giờ qua giai đoạn thứ ba. Sau một thời gian nghe được thánh pháp, rồi như cái lí mà tác ý để chứng đắc thánh pháp. Bây giờ mới biết như thật đây là bất thiện, đây là thiện.

Sau thời gian tu tập ở trên giai đoạn thứ nhất và thứ nhì thì các con mới biết đây là thật khổ. Bây giờ nói đời khổ chứ các con chưa biết đời khổ đâu. Biết đời là khổ chứ không phải không biết, biết nó khổ chứ không phải không khổ, nhưng biết khổ mà còn ham còn chạy theo khổ.

Cho nên người thật tu thì biết đây là thật khổ; đây thật sự là thiện, đây thật sự là bất thiện; đây là có tội, đây là không tội; đây cần phải thuận theo, đây cần phải không thuận theo, cần phải tránh né; đây là hạ liệt, đây là cao thượng; đây là đúng, đây là sai. Tất cả các cái này bây giờ người thật tu biết rất rõ, tức là người ta biết nhân quả, cũng như bây giờ Thầy biết rõ nhân quả cho nên Thầy ngồi trong bầu trời nhân quả mà Thầy được giải thoát.

Các con nghe nhân quả, hiểu nhân quả nhưng chưa thật biết nhân quả cho nên hở chút là các con buồn khổ, các con lo rầu khóc lóc, đó là các con chưa thật biết nhân quả. Còn khi nào các thật biết nhân quả là khi các con thật biết đây là thiện, đây là bất thiện; đây là có tội, đây là không tội; đây là hạ liệt, đây là cao thượng; đây là đúng, đây là sai, thì đó là các con đã biết lộ trình của nhân quả.

Lẻ ra Thầy nói như vậy, các con phải lắng tai mà nghe cho thâm sâu. Khi mà nghe rồi là các con chứng Thánh quả tức khắc, người nào cũng là Alahán hết. Các muốn vô thất thì các con khỏi cần đi, chỉ tàng hình một cái là đến thất ngay. Bởi khi buông xả được, cái tâm đã làm chủ nhân quả rồi, chúng ta ngồi xếp bằng bảo cái thân bay ra thất ngồi trên giường thì nó ngồi trên giường liền. Đó là thân tâm mình đã thanh tịnh rồi thì đâu cần tu tập cho cực. Mình chỉ tu tập khi mình chưa thật thấy đây là thiện, đây là bất thiện; đây là có tội, đây là không tội; đây là hạ liệt, đây là cao thượng; đây là đúng, đây là sai.

Vì chưa thật thấy cho nên nghe thì nghe, hiểu thì có hiểu  mà tâm chưa buông xả xuống, chưa thật buông; cho nên phải chờ một thời gian. Các con phải đặt niệm đó như cái lí mà tác ý cho đến khi biết thật như thật đây là thiện, đây là bất thiện; đây là có tội, đây là không tội; khi các con biết được như vậy rồi thì các con chỉ cần ngồi xếp bằng ở đây rồi bảo nó bay ra thất, đừng đi đạp kiến chết tội.

Cái thân mình là nhân quả mà mình làm chủ nhân quả thì bảo nhân quả phải nghe theo. Còn bây giờ các con chưa làm chủ được nhân quả cho nên bảo gì nó cũng ngồi lì đó, chỉ có nước là mình phải chịu khó bước đi thôi. Còn người ta làm chủ nhân quả, bảo gì nó cũng nghe theo. Như bảo thân đừng đau thì thân không đau. Còn không làm chủ nhân quả được thì bảo nó không nghe lời.

Như vậy trong vấn đề tu tập ở giai đoạn thứ ba này là ta đã thấm lí, chứng được lí đạo, người ta nói ngộ đạo chư chưa chứng đạo, phải tu tập một thời gian sau mới chứng đạo. Vậy thời gian thứ ba này là giai đoạn chứng đạo chứ không phải giai đoạn ngộ đạo, mà cũng không phải giai đoạn đang tu. Nhờ chánh pháp và tùy pháp biết như thật thấy như thật, vô minh được diệt trừ, minh được sanh khởi, nhờ thế an lạc khởi lên, hỉ khởi lên. Đó là con đường tắt thứ ba hướng đến an lạc được đức Phật chỉ dạy.

Đức Phật đã chỉ dạy cho chúng ta ba lộ trình, ba giai đoạn tu tập: giai đoạn 1 là chúng ta phải sống đừng thân cận dục lạc, đừng thân cận với ác pháp; giai đoạn thứ 2 chúng ta phải trau dồi những hành động thân miệng ý của chúng ta; giai đoạn thứ 3 là chúng ta chứng thật được cái lí nhân quả, làm chủ được sự sanh tử luân hồi sau khi đã khi đã trau dồi tu tập những hành động thân miệng ý của chúng ta trong các pháp thiện. Đó là ba con đường tắt mà chúng ta cần phải theo đó mà tu tập.

Tóm lại thì chỉ có ba giai đoạn tu tập như trên:

1/ Đừng gần sự ham muốn của chúng ta. Muốn đừng gần sự ham muốn của chúng ta thì chúng ta phải cách li tất cả những vật dụng thế gian. Nếu chúng ta gần những vật dụng tiện nghi của thế gian đầy đủ thì chúng ta làm sao mà li nó được, cho nên chúng ta phải tìm cách sống làm sao thật đơn giản chỉ với một chòi tre vách lá đơn sơ, bát ăn cơm uống nước mà thôi. Đó là Phật nói mình li dục đó. Còn có đồ vật là còn ham muốn. Như Thầy có máy móc các thứ mà nói Thầy li thì Thầy nói láo chứ đâu phải li, còn khi Thầy đi vào rừng không còn gì cả, cuộc sống ăn toàn củ rừng, củ mài, trái cây rừng... vậy mới li dục. Không có gì hết thì không ham, không có dục.

2/ Khi không có gì hết mới trau dồi thân miệng ý của mình cho đầy đủ oai nghi chánh hạnh thì tức là từ không có mới trau dồi được, chứ có thì không trau dồi được. Đó là người có hành pháp, người chuyên tu mới biết những cái này, còn người không có hành pháp, họ nói khơi khơi mà họ sống cả đống dục, đồ đạc cả đống mà miệng thì nói li dục thì làm sao họ li được. Đây là kinh nghiệm bản thân của Thầy nói ra thì các con lần lượt dẹp hết thì các li được hết thì hết dục, bởi không còn gì hết thì làm sao còn dục.

3/ Từ đó mình sống thiểu dục tri túc như vậy thì mình an vui hạnh phúc vô cùng, mình mới thấy cái li đem lại hỉ lạc của li dục cho nên mình từ chối tất cả, không còn ham muốn gì mọi vật chất thế gian. Mình phải sống như vậy tâm hồn mới thanh tịnh, chứ không phải ngồi tu mà tâm thanh tịnh được. Cho nên khi thấy người tu mà có nhiều thứ thì biết người đó không trau dồi gì được, không tu tập gì được.

Sẳn dịp Thầy trả lời cho một vị cư sĩ miền Bắc. “Này các con, con đường tu hành của đạo Phật là con đường thiện (mọi người phải hiểu con đường tu theo đạo Phật là con đường thiện, từ pháp thiện đó mới đứng trong góc độ nhân quả, vì có ác mới có thiện; còn nếu chỉ có thiện thôi thì làm sao gọi là thiện), con đường mà bất cứ ai trên thế gian này đều tu tập được và kết quả rất tốt đẹp y như nhau (không có ai tu mà không kết quả, đừng nghĩ hạ căn, trung căn không tu được, chỉ có thượng căn mới tu được. Không phải vậy, đã là con người ai cũng tu được hết, không ai không tu được, ở trên thiện pháp mà sống thì mọi người đều bình đẳng, cũng được hạnh phúc như nhau, không ai thua ai cả. Luật công bằng của nhân quả là vậy, cho nên dù đui mù, què cụt mà tâm trí bình thường, không làm điều ác, chỉ thực hiện điều lành, thì vẫn tu trong thiện pháp có kết quả giống nhau, người nào cũng được hạnh phúc vui vẻ rõ ràng cho cuộc sống hiện tại và mai sau của họ (con đường nhân quả thì ai tu cũng được, đừng nghĩ tôi là người hạ liệt, hạ căn còn các anh chị là người thượng căn, đã tu nhiều đời, mới tu được. Không phải đâu. Nếu ta làm thiện hiện nay là ngay bây giờ chúng ta đã nhận được phước báu rõ ràng và cụ thể của nó rồi chứ không đợi ngày mai hay một ngày nào khác). Chúng ta phải biết con đường thiện của đạo Phật đưa lại kết quả không có thời gian, muốn giải thoát được sự đau khổ của thế gian thì phải rõ ràng nhân quả (tức là phải thông hiểu được nhân quả). Có rõ thấu nhân quả thì hành động thân miệng ý được trau dồi tu tập theo thiện pháp (nghĩa là luôn luôn hành động thân miệng ý của chúng ta phải được trau dồi trong thiện pháp, chúng ta biết thiện pháp thì trau dồi nó, đừng làm việc ác bằng thân miệng ý của chúng ta, như sát sanh, trộm cắp... vì đó là những việc làm ác. Mình không muốn mất của tại sao lại ăn trộm của của người, do suy tư như vậy thì người đó không làm. Đó là trau dồi trong thiện pháp). Muốn được giải thoát sự đau khổ của thế gian thì hãy thấu rõ nhân quả. Có thấu rõ nhân quả thì hành động thân miệng ý phải được trau dồi tu tập theo thiện pháp mà các con đã được học, đó là 10 điều lành. Hằng ngày phải tu tập chánh niệm tỉnh thức trong hành động tức luyện tập thân miệng ý của mình. Có vậy mới thoát ra khỏi nhân quả dù mình đang ở trong sự chi phối của nhân quả. Chúng ta mới thấy Phật dạy quá thực, dạy cho chúng ta có đạo đức nhân quả biết thương mình biết thương người, không làm khổ mình, không làm khổ người, thế tại sao mình không thực hiện được những điều này, cứu mình ra khỏi nhân quả. Thân khẩu ý hằng ngày phải tránh 10 điều ác, sống trong 10 điều lành, luôn luôn phát triển 10 điều lành. Một người không cẩn thận, không dè dặt thân miệng ý của mình, mà chỉ ngồi thiền hít thở hay tụng kinh niệm Phật thì có ích lợi gì. Chúng ta nghe thuyết pháp là để chúng ta hiểu rồi hằng ngày chúng ta trau dồi tu tập thân miệng ý của chúng ta trong thiện pháp của Phật. Quý thầy và các con hãy nỗ lực tu tập thân miệng ý để thoát ra khỏi nhân quả. Chúng ta đang ở trong bầu trời nhân quả mà bẩy vũ trụ nhân quả, chúng ta làm được một việc rất là vĩ đại là làm chủ sanh tử, thoát ra khỏi luân hồi. Mà bẩy vũ trụ được, làm chủ sanh tử được, thoát ra khỏi luân hồi được là do làm chủ được thân miệng ý của mình. Đừng tạo nhân ác, đừng tạo hành động ác, đừng nói ác, đừng nghĩ ác tức là chúng ta bẩy được vũ trụ. Chỉ ngay nơi thân khẩu ý của chúng ta mà làm được việc này thì còn gì phải lo. Nhân quả luân hồi chúng ta sao được. Đó là việc gần gủi nhất mà mọi mỗi gia đình đều thực hiện 10 điều lành, tăng trưởng 10 điều lành, diệt trừ 10 điều ác nơi thân khẩu ý của mỗi người. Đó là việc tu tập của các con theo đạo Phật, chứ không phải đến chùa cúng bái, tụng kinh, niệm Phật, tụng chú hoặc ngồi thiền hay làm những việc mê tín khác. Chúng ta đến chùa là theo gương hạnh của những bậc thầy đã làm chủ nhân quả, họ đã làm thế nào thì chúng ta bắt chước làm theo các vị đó chứ không phải đến chùa lạy Phật xi măng, về nhà tụng kinh, tụng chú, cầu xin gia đình bình an, làm ăn phát đạt, thăng quan tiến chức mà thân miệng ý thì không giữ gìn sống trong 10 thiện pháp của Phật. Sự tu tập đạo Phật thực tế và cụ thể, không phải là hình thức mê tín trừu tượng. Chính đạo Phật dạy cho người tu thiểu dục tri túc tức làm đem lại cho họ một nguồn vui sống yên vui hạnh phúc thật sự. Chính v&i