Nguồn: thuvienthaythonglac.net
(Chúng con nghĩ rằng: Phải tu được như Thầy mới có thể hiểu Thầy, cho nên viết về một bậc đức hạnh giải thoát làm chủ sanh, già, bệnh, chết như Thầy không phải việc dễ làm. Ở đây chúng con xin được viết đôi lời về người Thầy tôn kính dưới góc độ của người đệ tử.)
--o0o--
Thầy của chúng ta, Trưởng lão Thích Thông Lạc, thế danh là Lê Ngọc An, sinh ngày 4/8 năm Mậu Thìn, nhằm ngày 17/9 dương lịch năm 1928. Thầy là con thứ tư trong gia đình. Ông thân Thầy là hòa thượng Thích Thiện Thành, thế danh là Lê Văn Huấn, trụ trì đời thứ tư chùa Am, ông là một thầy thuốc đông y, thường chữa bệnh cho mọi người. Vì thế chùa Am giống như trạm y tế xã, bình thường mọi người tới trị bệnh đông như ngày hội. Mẹ Thầy là tín nữ Thiện Tâm, người trông nom chùa Am.
Thầy được ông thân cho xuất gia năm 8 tuổi, được học với nhiều vị hòa thượng và được hòa thượng Thiện Hòa cử đi học Phật học viện Huệ Nghiêm và Đại học Vạn Hạnh. Thầy cũng được các vị hòa thượng giới thiệu tham gia giảng dạy trong các trường Bồ Đề trong lúc còn đang học tại Đại học Văn khoa Sài Gòn. Quê hương còn chiến tranh ác liệt, Thầy có tham gia hoạt động trong phong trào học sinh - sinh viên phản chiến.
Lúc ông thân Thầy lâm bệnh, Thầy trở về quê nhà chăm sóc. Chứng kiến sự ra đi của người cha rất mực thân thương, không biết là về phương nào? Thấy cuộc đời này quá đau khổ, Thầy quyết tâm tu tập giải thoát, và cũng để tìm người cha hiền hiện nay đang ở đâu!? Xếp lại phía sau mọi chuyện thế gian, Thầy lại khoác áo tu hành, bắt đầu cho công cuộc đấu tranh đầy cam go nhưng oanh liệt là giành lại quyền làm chủ sanh tử cho bản thân mình. Đây là bước ngoặt lịch sử để một bậc làm chủ sanh, già, bệnh, chết ra đời dựng lại chánh pháp của Phật sau này.
Thầy đã trải qua nhiều pháp môn tu tập từ Mật Tông, Tịnh Độ Tông và Thiền Tông, và ở pháp môn nào Thầy cũng nỗ lực hết sức đạt thành chỗ tâm đắc của pháp môn đó, nhưng vẫn không làm chủ được sinh, già, bệnh, chết như kinh Phật đã dạy.
Ở tu viện Chơn Không học thiền với hòa thượng Thanh Từ trong ba tháng an cư năm 1970, được Sư Phụ giảng cho pháp môn tri vọng, Thầy như con Đại Tượng qua sông không ngoái đầu nhìn lại, đã tinh tấn không phút giây lơi lỏng. Có lần hòa thượng tuyên bố: “Trong pháp hội có người đại tinh tấn”, mọi người ngầm hiểu đó là Thầy.
Rời khỏi Chân Không lên Hòn Sơn Rạch Giá, ngồi tu ngót năm trời trong cái hang đá, những thợ rừng thỉnh thoảng mang cơm gạo cúng dường Thầy, Thầy cảm thấy không tiện nên tập ăn lá cây rừng để sống. Hòn Sơn nơi đây là thánh tích ghi dấu cho một con người quyết tâm tìm cầu sự giải thoát mọi sự đau khổ của kiếp người.
Trên đình Hòn Sơn, Thầy sống trong hang đá Ma Thiên Lãnh. Những đêm khuya thanh vắng, tiếng tàu đánh cá ngoài khơi xa văng vẳng gợi lên lòng thương nhớ mẹ và em nơi quê nhà, trong khi đất nước còn bom cày, đạn xé từng tấc đất yêu thương. Bao nhiêu câu hỏi dồn dập trong đầu, không sao trả lời được, bấy giờ pháp môn tri vọng vô phương, không sao dẹp được loạn tưởng này.
Từ Hòn Sơn trở về Thầy nói với mẹ: “Mẹ ráng nuôi con ngày một bữa, đời con chỉ biết có tu hành mà thôi”. Nghe Thầy nói vậy, mẹ Thầy xúc động không cầm được nước mắt.
Khép cửa thất lại, Thầy bắt đầu sống cuộc đời cô đơn, cô độc gần mười năm liền.
Thời kỳ đầu, hoàn cảnh gia đình không cho phép Thầy chỉ ngồi không tu tập, vì vậy Thầy vừa làm để sống và vừa lo tu tập. Cho nên Thầy vừa lao động sản xuất vừa xả tâm theo phương pháp chánh niệm tỉnh giác câu hữu với pháp như lý tác ý của Phật Giáo Nguyên Thủy. Sau sáu tháng tu tập với câu tác ý đơn giản, “tâm như cục đất, ly hết tham, sân, si đi!”, mà thành công vĩ đại không ngờ. Vào thời khuya, ngày mồng 9 tháng 9 âm lịch năm 1980 Thầy chứng đạo, làm chủ hoàn toàn sinh, già, bệnh chết. Nghĩa là mọi dục lạc thế gian không còn cám dỗ được Thầy, bệnh tật, già yếu, lụm cụm không tác động được vào tâm của Thầy, và Người muốn sống là sống, muốn chết là chết dễ như trở bàn tay.
Từ nay trên hành tinh này đã xuất hiện một bậc giải thoát kể từ sau khi những thánh đệ tử cuối cùng của đức Phật nhập diệt cách đây đã gần 26 thế kỷ. Thầy vẫn sống trong thế gian mà tâm hồn thì đã vượt thoát thế gian, Thầy vẫn sống bình thường mà phi thường vì không còn bị nhân quả chi phối, tâm luôn luôn bất động, thanh thản, an lạc và vô sự.
Như vậy, sau gần mười năm giam mình trong cô đơn hưu quạnh, Thầy mở cửa thất bước ra làm “Người chiến thắng”. Thầy nói với mẹ: “Từ nay mẹ khỏi mang cơm vào thất, vì con sẽ ra đây ăn cơm với mẹ! Con đã tu xong rồi”. Có lẽ lời hứa nguyện từ kiếp nào đã thành, bà cụ ra đi sau đấy ba tháng.
Kể từ nay, chân lý đã được soi đường trở lại! Thầy bắt đầu công cuộc dựng lại chánh pháp của đức Phật Thích Ca, thắp sáng lên nền đạo đức cho nhân loại, đạo đức nhân bản - nhân quả, sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.
Bằng kinh nghiệp thực chứng của mình, Thầy chỉnh đốn những điều sai trái trong đạo Phật, gióng lên tiếng rống sư tử chúa, thức tỉnh mọi người trở về với con đường chân chánh của Phật giáo mà bấy lâu nay mọi người vẫn lầm lạc trong rừng kinh sách phát triển được gán nhãn hiệu Phật giáo.
Chùa Am xưa, sau này là Tu viện Chơn Như đã rộng cửa cho các tu sinh và phật tử về tu học, Thầy đã hướng dẫn họ tu hành đúng chánh pháp của Phật là diệt ngã, xả tâm ly dục ly ác pháp theo lộ trình Giới, Định, Tuệ. Thầy giải đáp mọi thắc mắc của quý tu sinh và phật tử về những điều đúng, sai, các kiến chấp và pháp tu trong đạo Phật, được biên tập lại trong bộ sách Đường Về Xứ Phật; cũng như chú giải lại những lời gốc Phật dạy trong tập sách cùng tên, những kinh điển cho mọi thế hệ tu hành mãi mãi về sau.
Cứ thế, Thầy vừa giảng dạy đào tạo, vừa viết sách, chú giải kinh Phật, trả lời thư vấn đạo phật tử bốn phương và gầy dựng cơ sở... Cùng với những lời pháp nhũ quý báu, những bộ sách về đạo đức nhân bản- nhân quả, giới đức, giới hạnh, giới hành... cũng lần lượt được Thầy biên soạn cho tu sinh và phật tử tu học từ thấp đến cao. Đó là những Pháp Bảo vô giá dựng lại nền đạo đức nhân bản của Phật Giáo. Thầy đã xây dựng lại giáo án tu tập đúng với con đường Bát Chánh Đạo của đức Phật Thích Ca, để những đời sau mỗi người đều có thể dựa vào những pháp bảo này mà tu hành giải thoát và làm chủ được bốn nỗi khổ đau của kiếp người là sanh, già, bệnh, chết như Thầy hiện nay và Đức Phật ngày xưa đã làm.
Vì nền đạo đức nhân bản - nhân quả cho con người trên hành tinh này, vì đạo nghiệp giải thoát của những người đệ tử và chúng sanh những đời sau mà Thầy chưa từng có một ngày nghỉ ngơi, với tuổi gần tám mươi, ngày chỉ duy nhất một bữa ngọ trai, mà Thầy vẫn khoẻ khoắn và có thể đi lại hàng ngàn cây số khắp mọi miền đất nước để ban rải Pháp âm, truyền Bát Quan Trai Giới, làm lễ Qui Y, khai thị, giải nghi, sách tấn khai tâm cho mọi giới Phật tử tiến tu để giải thoát khổ đau.
Công cuộc dựng lại chánh pháp là cả một quá trình đầy vất vả, gian lao. Biết chúng sanh khó độ, nhưng vì thương mà Thầy tạo duyên giáo hóa nên Thầy phải bao phen vào nguy ra khốn để độ sanh. Thầy luôn đứng trên đầu sóng, ngọn gió chèo lái con thuyền chánh pháp, dìu dắt lớp lớp bao thế hệ tu sinh, phật tử để những danh từ “đạo đức nhân bản – nhân quả, sống không làm khổ mình khổ người” đi vào tâm hồn và biến dần thành những hành động sống cho mọi người, từ đó hành tinh này sẽ có nền đạo đức không làm khổ mình, khổ người, những đạo đức sâu mầu, cao thượng, đầy đủ đức hạnh trọn vẹn của một con người.
Khoảng gần 12 giờ khuya ngày 1/1/2013 (nhằm ngày 20/11 Nhâm Thìn),Thầy xả bỏ báo thân, an trú trong trạng thái bất động thanh thản, an lạc vĩnh viễn, để lại cho nhân loại gương hạnh đạo đức của bậc tu hành giải thoát cao thượng tuyệt vời và nền đạo đức nhân bản – nhân quả, sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sinh.
Hơn 2500 năm trước, đức Phật, một người Ấn Độ tại nước Nepal đã tìm ra chân lý, làm đảo lộn tư tưởng của con người thời đó, lật nhào 62 luận thuyết của ngoại đạo, tạo nên cơn chấn động về nhận thức của loài người. Ngày nay, vào cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21 này, tại Trảng Bàng – Tây Ninh quê hương Việt nam, Thầy của chúng ta, Trưởng lão Thích Thông Lạc, bậc chân tu tu hành giải thoát như Phật, lại một lần nữa tạo nên cơn địa chấn làm rung chuyển toàn bộ nhận thức của các tôn giáo và hệ tư tưởng đương thời, đem lại nhận thức đúng đắn về thế giới quan và nhân sinh quan cho toàn thể nhân loại. Đây là cuộc cách mạng vĩ đại về tư tưởng và phương cách sống mà đã hơn 25 thế kỷ qua bị che mờ bởi tà giáo ngoại đạo, kể từ sau khi những Thánh đệ tử cuối cùng của đức Phật nhập diệt.
Đức Phật là người đầu tiên triển khai nền đạo đức nhân bản – nhân quả tại Ấn Độ, được biết qua giáo lý nhà Phật có tên là “NGŨ GIỚI và THẬP THIỆN”. Ngày nay, Trưởng lão Thích Thông Lạc dựng lại và chuyển đổi nền đạo đức văn hóa của Ấn Độ thành nền đạo đức văn hóa của dân tộc Việt nam, có tên là “ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN – NHÂN QUẢ, SỐNG KHÔNG LÀM KHỔ MÌNH, KHỔ NGƯỜI VÀ KHỔ CHÚNG SANH”.
Chúng ta may mắn được có người Thầy mà đức hạnh là cả một đời tu hành không làm khổ bất cứ một chúng sanh nào. Thầy là bậc ân nhân của nhân loại và mãi là tấm gương đạo đức cho nhân loại trên hành tinh này noi theo.
Chánh pháp đã được Thầy triển khai dựng lại!
Kính ghi,
BBT thuvienthaythonglac.net