TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC
GIÁO ÁN TU ĐẠO PHẬT
II.- GIAI ĐOẠN XUẤT GIA
(Tỳ khưu Từ Quang biên tập lời Trưởng Lão giảng trong mùa an cư 1997, được ghi âm ở 61 cassette 90)
Phần thứ năm: GIỚI HÀNH
Chúng ta đã kết luận giới bổn qua lời Thầy vừa nói xong. Sau khi học xong giới bổn Patimokkha, bây giờ quý thầy tiếp tục học giới hành. Giới hành là những điều rất quan trọng trong giai đoạn cuối cùng của giáo án.
Giới hành là gì? Giới là thiện pháp, là pháp thiện như quý thầy đã được học; hành là trau dồi tu tập, rèn luyện. Giới hành là trau dồi, rèn luyện, tu tập thân tâm mình trong thiện pháp.
Giải thích như vậy để quý thầy biết giới luật không phải là giáo điều khô khan cằn cổi, mà là những pháp thiện để trau dồi thân tâm của chúng ta trở thành sống trong thiện pháp hoàn toàn để được giải thoát cho mình và cho người, chớ không phải cho mình không thôi đâu. Như vậy là quý thầy hiểu nghĩa thực hành của nó khi học giới hành.
1.- GIỚI HÀNH VỀ ĂN UỐNG
Bây giờ chúng ta tiếp tục qua phần giới hành. Phần giới hành chia làm 4 giai đoạn tu tập, nghĩa là khi chúng ta tiến tới tu tập giới hành thì chúng ta có 4 giai đoạn:
Thông hiểu những gì cần thông hiểu như Phật đã dạy. Chúng ta phải thông hiểu rồi mới tu tập, không phải như trong giới bổn mấy ông giới sư nói không cần hiểu, chỉ thọ rồi cố gắng giữ nó đừng cho phạm thôi. Người ta không hiểu giới quy định như thế nào, làm sao người ta không phạm. Lối đó là lối lí luận của học giả, không phải là lối lí luận của Phật pháp. Cho nên chúng ta phải thông hiểu những gì cần thông hiểu tức là chúng ta phải học hiểu cho rõ, biết cho rõ tất cả những gì sẽ thực hành sau này, không còn bị tà kiến, kiến chấp mang đầy ắp trong đầu chúng ta không để trong đầu óc của chúng ta chất đầy các hiểu biết tà kiến, những kiến chấp có sẳn từ trước.
Từ ngày Thầy đọc lại trong kinh nguyên thủy A-hàm thì tất cả những lí luận của kinh Đại thừa còn đầy ắp trong đầu của Thầy, nhiều khi Thầy đứng ở trong kiến chấp đó mà luận cách này cách kia, Thầy bác các kinh nguyên thủy, Thầy nói kinh nguyên thủy còn thấp, còn nói theo kiểu phàm phu tục tử, nhưng cuối cùng Thầy xét thấy không phải phàm phu tục tử mà làm được chuyện này, mà đó là bước đầu của sự tu phải tập luyện như vậy mới đúng cách. Nên từ đó những kiến chấp, những tri kiến của Đại thừa và Thiền Đông độ mới được quét ra sạch ra khỏi đầu Thầy. Nhất là Trung Quán Luận của ngài Long Thọ làm đầy ắp trong đầu óc của Thầy, mỗi mở miệng ra thì bao giờ Thầy cũng đem Bát Nhã và Trung Quán Luận mà quét bên nay quét bên kia, đập phá kinh Nguyên thủy nữa, đập xuống hết. Nhưng cuối cùng Thầy thấy Trung Quán Luận là điều già hàm lẻo mép của ông già Long Thọ chứ không phải cái chính từ đức Phật dạy chúng ta. Phật dạy chúng ta phòng hộ sáu căn đi đến chánh niệm tỉnh thức, làm chúng ta thấy rõ ràng con đường giải thoát của đạo Phật. Bước vô là có giải thoát. Mấy ông Bát Nhã và Trung Quán Luận này miệng nói chứ không có giải thoát được cái gì cả. Cho nên cuối cùng Thầy mới quét sạch ba cái tà kiến đó trong đầu ra. Nếu không thì dính đầy ắp các tà kiến trong đầu hết. Hồi đầu, mỗi mở miệng ra cái gì cũng là Phật tánh, cũng là Bát nhã, cái gì cũng là huyển giả hết, chỉ mình không bị dính mắc nó là được. Nói như vậy mà pháp hành không bao giờ có, cho nên cuối cùng dính mắc vẫn hoàn dính mắc.
Ở đây chúng ta là những người đầy ắp những tà kiến, những kiến chấp trong đầu rất nhiều. Những tà kiến, những kiến chấp này rất độc, nó dính vô đầu chúng ta. Muốn buông nó ra không phải dễ đâu; chúng ta phải có trí tuệ sáng suốt là khi chúng ta có tu hành được cái gì rồi, mới tin, mới phá nó được. Còn nếu chúng ta không có hành được, khó phá những kiến chấp này lắm. Nghĩa là bây giờ quý thầy tu chưa tới đâu thì những kiến chấp về Thiền Đông độ, về Đại thừa mà quý thầy đã được các bậc thầy tổ cho quý thầy hiểu nghĩa lí của nó rồi, mà quý thầy chưa tu được giải thoát thì khó mà giải trừ những tà kiến, những kiến chấp đó lắm. Khi nào quý thầy đã tu, đã giải thoát được rồi, quý thầy làm chủ sống chết được rồi thì chừng đó quý thầy mới thấy những kiến chấp đó là sai. Còn bây giờ quý thầy thấy nó là đúng.
Cho nên có nhiều người cứ luận để hòa hợp. Hòa hợp làm sao được khi người ta không bỏ được những kiến chấp đó, những tà kiến đó. Người ta muốn hòa hợp giữa Đại thừa và Tiểu thừa mà cái kiến chấp của Đại thừa người ta không bỏ được, thấy nó còn đúng. Họ là những người tu chưa tới đâu hết, cho nên họ chưa biết giải thoát ở chỗ nào. Họ thấy những tà kiến, kiến chấp của Đại Thừa và Thiền Đông độ đó là đúng cho nên họ không thể bỏ được. Họ cứ cho mấy ông tổ của Đại Thừa và Thiền Đông độ đúng, chứ chưa thấy sai đâu. Họ không thấy những cái làm được hay không làm được thật sự. Khi chúng ta tu tập, chúng ta làm được rồi mới thấy cái nói của mấy ông tổ đó là sai. Còn khi tu chưa làm được chúng ta vẫn còn dính nó chứ chưa bỏ cái đó ra đâu.
Những tà kiến, kiến chấp này rất độc ác, phần nhiều là do pháp tưởng của các loại kinh ngoại đạo sanh ra, rồi đầu óc ngu si của chúng ta mê mờ, không rõ, cứ cho rằng cái mà chúng ta hiểu từ kinh sách nggoại đạo đó là đúng nên không chịu bỏ, không chịu sửa sai. Do thế tưởng là tu theo đạo Phật mà lại tu theo tà giáo ngoại đạo nên cuối cùng luôn luôn phạm giới luật của đạo Phật, đức hạnh người tu sĩ không bao giờ có, đức hạnh người tu sĩ chẳng ra gì. Nhìn người tu sĩ chẳng giống ai, đời chẳng ra đời, mà đạo chẳng ra đạo, chẳng làm chủ được sanh tử mà cứ ngở tưởng là làm chủ được sanh tử. Cứ tưởng rằng mình có thể nhập vào bản thể Chơn Như Phật Tánh là sẽ chấm dứt được sanh tử luân hồi. Nhưng cách nhập như thế nào, họ chẳng biết cách thức nào để nhập. Để rồi họ tưởng ra những cách hảo huyền, họ tự gạt họ, rồi gạt bao nhiêu người khác nữa. Phật Tánh do tưởng nhận ra cho nên tâm tham sân si chẳng lìa được, ngũ triền cái vẫn còn che khuất, thất kiết sử vẫn còn trói buộc mà chẳng thấy, lại bảo rằng đó là tạp khí chưa hết, bồ tát còn tạp khí huống là chúng ta. Đó là những lí luận của họ.
Nếu họ làm chủ được sống chết thì tâm tham sân si họ đâu còn, ngũ triền cái đâu còn che khuất, thất kiết sử đâu còn trói buộc. Họ chỉ thấy được Phật Tánh của họ, chỉ nhận ra cái Phật tánh của họ bằng cái tưởng của họ thôi, nên tâm tham sân si của họ vẫn còn, triền cái vẫn còn, kiết sử vẫn còn, cho nên họ tự bào chửa đó là tạp khí, là thói quen của họ lâu đời rồi cho nên bây giờ tuy thấy Phật Tánh nhưng thói quen chưa hết, phải chờ thời gian nữa. Nhưng họ cũng chẳng hiểu phải chờ bao đời cho hết tạp khí đó. Họ bảo cứ chờ đi, chờ đi. Sự thật đó là lí luận của họ che đậy sự không có pháp hành cho nên họ lập luận bồ tát còn tạp khí huống hồ là chúng ta.
Họ lấy lí luận là bồ tát còn sân si, bồ tát còn cái ta, thì chúng ta cố gắng giữ gìn cái Phật tánh đó đi, rồi chúng ta sẽ hết tạp khí. Nhưng mà cuối cùng thì như thế nào, hằng ngày đắm nhiểm trong dục lạc thì tham sân si càng nuôi lớn ra, thử hỏi có gì đâu gọi là giải thoát. Đáng thương cho những người này bỏ hết cả cuộc đời, không làm lợi ích cho mình, cho người mà chỉ ôm ảo ảnh để rồi đọa trong tam đồ chịu khổ luân hồi mãi mãi.
Họ tưởng đời này họ làm tổ rồi đời sau họ cũng làm tổ nữa, rồi đời kế họ cũng làm tổ nữa. Họ tính là họ cứ làm Tổ hoài như vậy, họ đi vào trong sanh tử để độ chúng sanh, nghĩa là trong đời này chỉ mình họ là độ chúng sanh được thôi, trong thế gian này hoàn toàn không có ai đủ khả năng độ chúng sanh được đâu. Họ tham đắm đến mức không tưởng tượng được, cho nên họ nói bồ tát luôn luôn đi vào trong sanh tử luân hồi để hoằng hóa, làm lợi ích lớn cho chúng sanh, cho nên bồ tát mới thích đi vô đi ra sanh tử như vậy, họ là bồ tát nên chẳng sợ sanh tử.
Thật ra họ có làm chủ sanh tử đâu mà họ không đi vô đi ra sanh tử. Đời sống xuất gia của tu sĩ thì chỉ có y áo, chiếc đầu cạo trọc và sinh hoạt tôn giáo, còn tâm của họ luôn luôn sống trong dục lạc thế gian. Nghĩa là bây giờ hầu như giới tu sĩ hiện giờ chỉ có được bộ y áo và chiếc đầu cạo trọc mà thôi, sinh hoạt tôn giáo thì họ cúng bái lễ lộc thuyết giảng vậy thôi, còn cái tâm của họ thì sống trong dục lạc thế gian y như người thế gian, không khác chút nào hết. Cho nên giới luật họ đều vi phạm hết, lổi nhỏ cũng phạm, lổi lớn cũng phạm, không có lổi nào mà họ chừa hết. Quý thầy cứ xét soi đời sống phạm hạnh của một tu sĩ có còn có nữa hay không.
Đây chúng ta nghe tôn giả Ratthapàlà:
- Bạch Thế tôn, như con được hiểu lời Thế tôn thuyết giảng, đời sống tại gia đình sống theo dục lạc, thật không dễ gì thực hiện phạm hạnh. Nghĩa là đời sống của người thế gian là sống trong dục lạc, làm sao sống trong đời sống thế gian mà sống được đời sống phạm hạnh. Đây là lời trình bày của vị cư sĩ này. Thật sự đời sống trong gia đình không thể nào sống phạm hạnh của người tu được hoàn toàn viên mãn, hoàn toàn trong sạch, trắng bạch như vỏ ốc. Con muốn bạch đức Thế tôn cho con được cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, từ bỏ dục lạc thế gian, sống không nhà cửa. Bạch Thế tôn, mong Thế tôn cho con xuất gia dưới sự chỉ dẫn của Thế tôn, cho con thọ đại giới.
Ông cư sĩ này xin đức Phật, ông thấy đời sống ở trong gia đình không thể nào li được dục lạc của thế gian. Còn bây giờ quý thầy đang sống ở nơi tu hành, là một vị tu sĩ thọ đại giới hẳn hòi mà sống trong dục lạc còn hơn ở người thế gian thì đâu trắng bạch như vỏ ốc được, thì đâu có giải thoát được. Vị cư sĩ này đã xác định cho chúng ta thấy rằng con đường của đạo Phật phải khác, không thể nào giống con đường thế gian được. Thế mà quý vị sống đạo chẳng ra đạo, đời chẳng ra đời thì quý vị làm sao giải thoát được.
Sau khi được cha mẹ cho đi tu và được đức Phật chấp nhận cho xuất gia, chẳng bao lâu tôn giả Ratthapala chứng quả Alahán. Chứng quả xong, tôn giả xin Phật trở về thăm cha mẹ. Khi về đến nhà tôn giả không được sự tiếp đải mà còn nhận những lời sĩ nhục. Tôn giả chỉ nhận được bát cháo thiu của người đầy tớ, nhờ thế mà phụ thân tôn giả mới đến gặp tôn giả mời ngài về nhà: "Này con thân yêu, có phải con ăn cháo thiu ngày hôm qua không? Con phải về nhà cửa của con đi".
Khi người con đi tu rồi, sau đó về gặp lại cha mẹ, cha mẹ có mừng rở không? Qua hình ảnh của vị cư sĩ này, chúng ta thấy rằng vị này theo Phật tu hành, 3 năm sau vị này chứng quả Alahán nên xin Phật về gặp gia đình, Phật thấy rằng đúng, nên cho về.
Nhưng khi vị này xin đi tu thì gia đình không cho là vì thương đứa con một của mình, không muốn cho nó đi tu, nên ông nằm vạ, ông đòi chết nếu không được đi tu. Cuối cùng thì cha mẹ bằng lòng cho đi tu. Cho nên khi thấy có ông tu sĩ đi ngang qua cửa thì ông cha ở trong nhà chửi như thế này: "Cũng ba thằng đầu trọc này mà nó làm cho con ta ba năm rồi mà không thấy nó về". Ông bị chửi như vậy, cho nên ông nói về nhà ông bị sĩ nhục là chỗ bị chửi đó. Sau đó có một đứa đầy tớ trong nhà của cha ông đem đổ bát cháo thiu, ông mới kêu người đầy tớ: "Bà chị ơi, bà chị đổ vào trong bát của tôi đi". Người đầy tớ đổ cháo vào bát xong mới nhận ra vị này là ông chủ nhỏ của mình nên chạy đến gặp bà mẹ của tôn giả báo tin, trong khi đó thì tôn giả đã ăn bát cháo thiu rồi. Ông cha biết là tôn giả về thăm nhà, ông liền đến mời người con về nhà ăn cơm thì tôn giả nói đã ăn cháo xong rồi, cho nên ông cha mới hỏi: "Này con thân yêu, có phải con ăn cháo thiu ngày hôm qua không? Con hãy về nhà cửa của con đi".
Tôn giả không còn gọi cha là cha nữa, mà coi cha mình chỉ như một người cư sĩ thôi, trả lời: "Thưa gia chủ, thôi vừa rồi, hôm nay tôi đã ăn xong rồi". Nghĩa là sau khi đã ăn xong, có mời gì thì tôn giả cũng chẳng có thèm. "Vậy, này con thân yêu, hãy nhận lời ngày mai đến dùng cơm". Tôn giả im lặng nhận lời. Người cha về nhà lấy vàng bạc châu báu chất thành đống và gọi các người vợ cũ của tôn giả trang điểm cho thật đẹp để quyến rủ tôn giả ở lại.
Đến giờ thọ trai, tôn giả đến nhà của phụ thân ngồi nơi chỗ đã soạn sẳn, rồi người cha của tôn giả trình bày đống vàng và của báu. Ông cha dụ tôn giả: "Này con, đây là tiền của cha mẹ, đây là tiền của của ông bà tổ tiên, tất cả tiền bạc này là tiền bạc của con, cha mẹ chỉ vì mình con mà thôi, nay con đi tu, tiền bạc này bỏ cho ai, con hãy về mà trọn hưởng tài vật và làm việc phước đức bồ thí cho người khác đi". Tôn giả trả lời: "Thưa gia chủ, nếu gia chủ làm theo lời nói của tôi, gia chủ hãy đem vàng bạc châu báu này cho vào các cổ xe chở ra sông Hằng mà đổ xuống đi". Tôn giả bảo ông cha đem đổ của cải này đi. "Vì sao vậy, này gia chủ, do của báu này mà làm sầu bi ưu khổ đến với gia chủ". Lúc bấy giờ những người vợ cũ của tôn giả, người thì ôm chân, kẻ thì nắm tay tôn giả mà nói: "Thưa phu quân, vì thiên nữ nào mà phu quân sống phạm hạnh, bảo cho chúng em biết". "Này các bà chị, không phải vì thiên nữ nào mà chúng tôi sống phạm hạnh". Mấy người vợ nghe tôn giả gọi mình là bà chị thì hết ý kiến. Tôn giả nói với phụ thân: "Thưa gia chủ, nếu gia chủ muốn bố thí đồ ăn thì hãy bố thí đi, chớ có làm phiền tôi nữa". Sau khi thọ thực xong, tôn giả nói lên bài kệ rồi ra đi.
Các con thấy tôn giả Ratthapàlà không còn tình cảm riêng tư nhỏ hẹp, mà lòng từ của người ta đối xử bình đẳng với mọi người. Còn bây giờ chúng ta tu chưa xong nhưng lâu lâu 3 năm về thăm gia đình, gia đình mừng rở chạy ra nắm chân nắm tay rồi an ủi thế này thế khác. Điều đó làm chúng ta càng dính mắc thế gian, mạng lưới tình cảm thương ghét làm chúng ta khó mà giải thoát.
Cho nên khi người nào theo đức Phật tu hành rồi, khi đã chứng quả Alahán rồi đức Phật mới cho người đó về thăm gia đình, chứ không chứng quả thì không cho về, mà người nào lén về thì bị cám dỗ hết. Cho nên khi đi tu theo một vị thầy chứng đạo rồi, thì người đó không bao giờ muốn rời khỏi vị thầy nầy. Họ muốn làm sao sống một bên thầy cho đến khi tu chứng rồi, chừng đó mới xin vị thầy cho ra đi. Khi chưa chứng, khi còn cố gắng tu tập, cái tâm còn yếu mà xin ra thì vật chất và tình cảm ngoài đời cám dỗ vô cùng. Khi tu hành rồi, biết được từng giai đoạn từ mới vô cho đến khi đạt được giải thoát thì người tu sĩ mới rời khỏi vị thầy, chứ khi tu chưa xong mà rời vị thầy ra, rồi đi chơi chỗ này chỗ kia, thì người tu sĩ đó kể là hư rồi, không bao giờ còn tu được nữa.
Chúng ta đã vào tu và chọn được vị thầy có giới hạnh nghiêm túc, ở đó có pháp hành, có lí pháp, có hành pháp hẳn hòi, thì chúng ta bắt đầu ở đó, chấp nhận và khép mình trong khuôn khổ, sống tận cùng với thầy 5 năm, 10 năm, chừng nào tu xong rồi, thầy cho phép chúng ta mới rời. Còn đằng này chưa giải thoát gì mà trong vòng chừng nửa năm hay hoặc một năm, xin thầy về thăm cha mẹ hay đi chơi một vòng, là không hỏng rồi.
Trước khi đến những giới hành, Thầy nhắc lại cho quý thầy những điều Thầy dặn bảo rất kỹ lưỡng: Khi không có Thầy thì quý thầy lấy giới luật, giới mà Thầy đã giảng, làm điều kiện trói chặt mình, ở trong khu vực nào thì ở chết trong khu vực đó 5 năm hay 10 năm, đến khi tu đạt được quý thầy mới rời khỏi chỗ đó, mà không đạt được thì nhất định không ra khỏi. Tạo thành một giới đàn cho vững chắc như vậy may ra quý thầy mới có giới hạnh để tu giải thoát.
Bởi vì 10 năm trong thất, trong khoảng thời gian từ 1971-1980 Thầy ẩn bóng để tu. Năm 1975 là thời gian chiến tranh khốc liệt khắp cả miền Nam nước chúng ta, vậy mà Thầy quyết định không rời thất mặc dù bom đạn ào ào, máy bay trực thăng bắn như xối xả xuống khu vực thất Thầy, người nào cũng chui hầm trốn hết mà Thầy thì chết bỏ, ngồi thiền sừng sửng trước tượng Phật. Đó mới là cái gan dạ của người tu hành, chứ nếu không gan dạ, không thể ngồi bất động đó được, chỉ có nước bỏ chạy thôi. Tất cả xóm đều bỏ chạy hết, mẹ Thầy em Thầy đều chạy trốn ra vùng không giặc hết, đâu dám ở. Quân đội Giải Phóng đào hầm chiến đấu quanh nhà dân, quanh thất của Thầy. Lúc quân đội Quốc Gia tấn công vô, thấy Thầy ngồi trong thất đều hoảng hồn hết, bảo sao Thầy không nằm xuống. Thầy vẫn ngồi đó. Tượng Phật nát thì Thầy nát. Đạn bắn chung quanh, tất cả nhà trong xóm đều bị cháy hết mà thất của Thầy không cháy. Thầy quyết định chết bỏ chứ không rời khỏi thất. Thầy nhận ra cái oai lực của người tu có giới hạnh rất vĩ đại. Cho nên mỗi người đệ tử mà rời khỏi Thầy thì Thầy luôn luôn nhắc họ giữ giới hạnh, giới hạnh sẽ cứu các thầy. Thầy biết rằng giới hạnh đã cứu Thầy trong trận chiến như vậy.
Trên bước đường tu hành khi các con ra khỏi tu viện, các con ăn uống phải đúng cách, oai nghi tế hạnh phải đúng, đi phải nhìn xuống đất. Những oai nghi đó không ai làm cho mình thay đổi. Đừng nói rằng tôi đi với bạn, họ ăn vậy thì tôi phải theo họ ăn, tức là mình đã phá giới. Mình giữ giới, họ ghét chúng ta, họ thù chúng ta thì kệ họ, nhưng sau này họ sẽ trở thành đệ tử chúng ta. Chứ còn mình theo họ, tức là mình bị ma dẫn rồi. Mình tùy theo họ, mình sợ họ có quyền có thế, họ hại mình chứ gì, mình sợ họ chứ gì, do đó họ ăn ba bữa, họ mời mình cũng ăn như họ, hay họ mời mình uống ly nước gì đó rồi mình tùy thuận theo họ. Tùy thuận theo họ kiểu đó là mình bị mất giới rồi. Khi mình bị mất giới rồi thì những người khác coi rẻ mình, còn mình giữ giới hẳn hòi, ăn uống trong giới luật, đi ra nhìn xuống đất, ai nói rằng mình làm bộ, làm dáng, thì kệ họ.
Hôm trước Thầy có dạy các con thế nào là một pháp, nhưng hôm nay Thầy nhắc lại để các con biết thế nào là một pháp.
Pháp đầu tiên chúng ta biết rằng đó là ăn, thứ hai là hành.
Nghe đến ăn thì ai cũng ngạc nhiên hết, cái pháp gì mà dạy kỳ cục, dạy ăn không hà, dạy hành không hà. Ở đây các con để ý là tất cả các loài hữu tình do các món ăn mà được an trú. Con vật nào mà được an trú thì phải ăn uống mới được an trú, chứ không ăn uống thì không thể nào sống nổi đâu. Cho nên ăn là một pháp rất quan trọng.
Tất cả các loài hữu tình do các hành mà được an trú. Có con vật nào mà không hoạt động đâu. Thân nó cũng linh động, cũng hô hấp, tim cũng đập hết. Có con vật nào không có linh động, cái thân của chúng nhúc nhích, đi tới đi lui... đều là động hết.
Nhìn chung các loài hữu tình đều có cái ăn, cái hành cho nên chúng nó là loài động vật. Như vậy chúng ta biết hai pháp này rất là quan trọng. Vậy thì bây giờ chúng ta hành như thế nào để được giải thoát, bởi vì chúng ta biết các loài hữu tình phải có hành, các loài hữu tình phải có ăn, cho nên chúng ta ăn phải như thế nào để chúng ta được giải thoát; ăn như thế nào mà không giải thoát.
Nếu chúng ta ăn trong dạng thèm ăn thì có giải thoát không? Đâu có giải thoát. Ăn mà không thèm, ăn coi như là một thứ thuốc để sống thôi, thì cái đó mới giải thoát.
Cho nên một pháp rất quan trọng là về cái ăn. Chúng ta ăn ngày một bữa mà không thèm ăn, ăn để sống. Chúng ta thấy cái ăn đối với loài hữu tình, con vật cho đến con người, hiện bây giờ trên thế gian này quá chú trọng đến cái ăn, người ta tranh với nhau về cái ăn. Chúng ta là người tu sĩ dẹp cái ăn qua một bên, chúng ta ăn chỉ để sống chứ không còn quan trọng nữa. Đó là cái thứ nhất mà chúng ta phải hiểu biết và tu tập.
Cái thứ hai về hành. Chúng ta biết về hành có ba chỗ hành: Thân hành, khẩu hành, ý hành. Thân của chúng ta hành, đừng có làm khổ mình; cái miệng của chúng ta hành, đừng nói lời nói mà làm khổ mình khổ người; cái ý của chúng ta hành, đừng khởi nghĩ cái gì làm khổ mình khổ người. Như vậy, chúng ta phải biết cái hành quan trọng đến mức nào.
Cái ăn chỉ có một mà cái hành có tới ba chỗ. Nói như vậy là chúng ta đã biết có một pháp rất quan trọng: đó là pháp ăn và pháp hành. Vậy từ đây về sau quý thầy phải cẩn thận trong những cái hành, trong những cái ăn uống. Đó là những pháp mà Thầy nhắc nhở cho quý thầy thấy.
Thân hành như thế nào để đem lại sự giải thoát. Người đời hành không có giải thoát đâu. Người ta đánh lộn, người ta đập nhau lỗ đầu chảy máu thì làm sao mà gọi là giải thoát. Cho nên ở đây chúng ta hành như thế nào mà được giải thoát.
Trong những bài trước Thầy có dạy có hai pháp. Vậy thì hai pháp như thế nào? Một là danh và sắc.
1./ Pháp thứ nhất, các con phải hiểu danh là cái gì và sắc là cái gì?
Trong 12 nhân duyên, Phật có dạy danh sắc tức là bào thai của con người, tức là thân và tâm của chúng ta. Sắc là cái thân mà danh là cái tâm. Do có danh sắc mà có sự đau khổ của chúng ta. Vì vậy chúng ta phải hiểu danh sắc có phải là bản ngã của chúng ta không? Nó có phải là vật thường còn hay vô thường? Nó có phải là cái thứ không khổ không? Cho nên chúng ta phải hiểu hai pháp danh và sắc này.
2./ Pháp thứ hai là Vô minh và Hữu. Vô minh là mê mờ. Trong 12 nhân duyên chúng ta thấy có duyên vô minh và duyên hữu. Do vô minh sanh hành, hành mới sanh thức; thức mới sanh danh sắc. Chúng ta thấy rõ có hữu thì nó mới có thủ; có thủ thì nó mới có sanh; có sanh thì nó mới có tử ưu bi sầu khổ.
Ở đây đức Phật ghép hai từ vô minh và hữu. Vô minh như thế nào, muốn phá trừ vô minh này thì chúng ta phải tìm hiểu những gì? Chúng ta tìm hiểu thì thông hiểu những gì cần thông hiểu và khi chúng ta thông hiểu thì vô minh bị phá vở liền. Như Phật nói thân thọ tâm pháp của chúng ta là vô thường, khổ, vô ngã. Bây giờ chúng ta phải tìm hiểu nó vô thường chỗ nào, nó khổ chỗ nào, nó vô ngã chỗ nào. Do chỗ chúng ta hiểu thì sẽ không còn vô minh nữa, mà không còn vô minh thì tức là minh chứ gì? Và khi vô minh hết rồi thì hữu có không? Cái vô minh mà hết rồi thì cái hữu không có nữa, cho nên nhà cửa tài sản chúng ta đều bỏ sạch. Vô minh có thì hữu có, bởi vì vô minh nó lầm chấp. Nó nói cái bàn này là thật, cái thân này là thật; cái thân này là ngã, cái tâm này là ngã. Cho nên nó chấp cái này là thật, vật nào cũng thật có hết. Cho nên mới có hữu. Vì vậy Phật ghép hai danh từ này lại chỉ cho vô minh và hữu. Hễ có vô minh thì có hữu, mà không có vô minh thì không có hữu. Có Minh thì chúng ta xả hết. Xả hết thì trắng bạch như vỏ ốc, như đời sống xuất gia ba y một bát. Các con thấy chỗ Phật ghép danh từ như vậy để chúng ta phá vỡ vô minh đó.
3./ Cái thứ ba là hữu kiến và vô hữu kiến. Ở đây đức Phật dạy hữu kiến tức là có sự hiểu biết, mà có sự hiểu biết tức là chúng ta có sở tri chấp, chấp cái kiến đó. Như từ lâu tới giờ nghe người ta nói trong thân này có Phật tánh, khi chúng ta ngộ ra cái Phật tánh thì chúng ta là Phật. Cho nên người ta nói kiến tánh thành Phật. Vậy là mình chấp kiến tánh thành Phật. Người ta chỉ cái Phật tánh đó như thế nào, mình nhận ra cái tánh đó là thành Phật. Thành Phật rồi nhưng tâm tham sân si của ta vẫn còn. Ta nói ủa sao mình nhận ra ông Phật rồi, mình thành Phật rồi mà sao còn tham sân si như vậy, ai chửi cũng giận dữ vậy, như vậy ông Phật này thiệt hay giả. Từ đó chúng ta có sự suy nghĩ phá cái vô minh này đi, chúng ta bẻ gãy cái kiến chấp đó, cái hữu kiến đó đi. Còn nếu chúng ta không có sự suy nghĩ chúng ta cứ ngở rằng trong thân ta có Phật tánh, cái Phật Tánh này là thường hằng, thường lạc ngã tịnh. Nó ở trong thanh tịnh thường an lạc trong đó. Do đó chúng ta bị cái chấp kiến đó nó làm cho chúng ta mê mờ không thấy đó là cái chấp ngã, cái chấp kiến của chúng ta. Từ đó chúng ta chết điêu chết đứng trong đó mà tưởng là mình đạt được cái đó là mình giải thoát, nhưng thật ra không giải thoát gì hết. Ở đây phải thấy cái hữu kiến này rất là nguy hiểm.
Vô hữu kiến. Khi đã hiểu ra như vậy, chúng ta xả bỏ đi, hoàn toàn chúng ta không có gì hết. Bởi vậy đến với đạo Phật cái gì chúng ta cũng bỏ hết nên chúng ta không có cái gì hết. Thậm chí như nói Niết bàn đức Phật cũng nói đâu có cái gì gọi là Niết bàn. Chúng ta chỉ biết rằng cái thân đời nay của chúng ta mà chúng ta làm chủ được thì chúng ta chỉ biết rằng chúng ta chỉ có một kiếp này thôi, và chúng ta không có kiếp sau nữa, nghĩa là không tái sanh nữa thôi. Chúng ta chỉ biết như vậy thôi chứ không thấy có Niết bàn, hay có Phật tánh, hay có cái gì khác nữa. Bởi vì còn có cái gì đó là còn có chấp kiến, tức là còn có hữu kiến.
Cho nên hai pháp Hữu Kiến và Vô Hữu Kiến không thể đi chung, nếu có Hữu Kiến thì không thể nào có Vô Hữu Kiến được, mà có Vô Hữu Kiến thì phải không có Hữu Kiến. Cho nên phá cái này thì cái kia sẽ đạt, phá cái kia thì cái này sẽ đạt. Một người có kiến chấp rồi thì làm sao gọi là vô hữu kiến được. Cho nên ở đây các con phải hiểu là khi các con mang đầy ắp trong mình cái kiến chấp của kinh sách này kinh sách kia, tất cả các kiến chấp đó phải bị đập phá xuống hết. Nếu không có sự đập phá của Thầy thì các con còn bao nhiêu kiến chấp chứ không phải là như bây giờ.
Các con nghe từ hồi nào đến giờ Thầy không dám đụng chạm đến ai hết, nhưng bây giờ Thầy thành lập giáo án xây dựng lại con đường tu của đạo Phật thì Thầy phải phá tất cả những cái kiến chấp đó xuống hết, có nghĩa là Thầy phải phá các kiến chấp này của các con. Còn nếu Thầy không phá các kiến chấp của các con, thì các con còn nói Phật tánh rõ ràng lắm, các con còn nói kinh này kinh kia dữ lắm, còn nói Bát Nhã là vô ngại. Tất cả những cái Bát Nhã đó sẽ phá đi những cái điên đão, mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn, thành ra sự giải thoát là thành tựu được trí tuệ Bát Nhã. Các con cứ kiến chấp những cái Bát Nhã xa vời vợi của cái tưởng đó chứ không có gì hết. Không được phá thì các con chỉ ở trong Hữu Kiến chứ không bao giờ ở trong Vô Hữu Kiến được. Phải phá đi những hữu kiến đó.
4./ Phần thứ tư này Phật dạy có hai pháp là Vô Tàm và Vô Quý. Người không biết xấu hổ và không biết sợ hãi thì người này không thể theo con đường của đạo Phật tu được. Cho nên có tàm và quý tức là có xấu hổ và có sợ hãi thì mới răn chừa các điều ác, chúng ta mới ngăn chận các điều ác được. Còn nếu làm những điều ác mà chúng ta không thấy sợ hãi tội lổi, không thấy xấu hổ thì cứ mãi làm mà chúng ta không lo, không gì hết. Do đó vô tàm vô quý là tâm của phàm phu, tâm của con người ác vì họ không biết xấu hổ, không biết sợ hãi về hậu quả của họ do nhân quả đưa đến cho họ gánh vác.
5./ Tàm và quý. Tàm có nghĩa là xấu hổ; quý là sợ hãi; nghĩa là người có xấu hổ có sợ hãi thì con đường của đạo Phật dễ dàng tu tập.
Thường người ta nói lúc đầu chưa biết thì khi phạm còn thấy xấu hổ, còn sợ hãi, nhưng khi đã phạm quen rồi thì không sợ. Thí dụ như các con mới đến tu viện này còn xa lạ, nghe nói trong tu viện có kỹ luật độc cư thì mới đầu các con còn giữ gìn sống độc cư, còn sợ hãi với kỹ luật đó. Nhưng sau một thời gian ở lâu quen rồi thì các con không thấy sợ hãi kỷ luật độc cư nữa. Kỹ luật độc cư như vậy chứ các con muốn nói chuyện với nhau thì lén nói chuyện, các con không còn sợ hãi độc cư nữa và các con cũng không biết rằng khi mình lén lút tiếp duyên, lén lút nói chuyện như vậy là do không biết xấu hổ, như vậy là tàm quý các con chưa có. Cho nên muốn có được tàm quý thì phải tu tập và phải rèn luyện, chứ không phải khi không mà có tàm quý. Đó là nói chúng ta phải tu tập để giữ gìn những giới luật, kỹ luật cho được là chúng ta phải tập tàm và quý.
6./ Ác ngôn và ác hữu. Ác ngôn là lời nói dữ, lời nói ác, lời nói làm người ta đau khổ. Ác hữu là người làm điều ác, người xúi chúng ta nói lời ác, người xúi chúng ta làm hành động ác, người nói lời ác hay ý niệm ác, đó là người ác hữu, người làm ác.
7./ Thiện ngôn và thiện hữu. Lời nói lành, lời nói làm ra nghiệp lành cho người ta không khổ mình không khổ là thiện ngôn. Thiện hữu là người bạn lành. Khi chúng ta ở gần người bạn lành thì chúng ta sẽ có những lời nói tốt, lời nói lành, lời nói không hung dữ; còn nếu chúng ta ở gần những người làm ác thì chúng ta sẽ có những lời ác ngôn, lời nói hung dữ, có những lời nói không thiện được. Hai pháp đối chiếu nhau để chúng ta chọn lấy một trong những pháp này.
8./ Nhập tội thiện xảo và xuất tội thiện xảo. Nhập tội thiện xảo là người muốn làm tội phải khéo léo để tránh cho người ta chỉ trích họ, cho nên khi họ làm tội gọi là nhập tội thiện xảo. Ở trong này Phật dạy xuất tội thiện xảo là khi chúng ta làm một điều gì thì phải khéo léo làm điều đó. Thí dụ chúng ta muốn làm điều ác gì thì chúng ta phải làm điều ác đó rất khéo léo, không vụng về. Còn bây giờ chúng ta làm một điều không ác thì cũng phải làm khéo léo làm.
Làm điều ác thì phải có sự khéo léo làm. Thí dụ như bây giờ chúng ta muốn lấy của của người ta thì ít ra chúng ta phải nghĩ cách này cách kia, hay hoặc là chúng ta muốn nói làm sao cho người khác tin người đó xấu thì chúng ta cũng phải thiện xảo nói làm sao cho người ta tin người đó xấu. Như vậy đó là thiện xảo để làm điều ác.
Muốn làm điều thiện thì chúng ta cũng phải thiện xảo để làm điều thiện, không thể thiếu thiện xảo mà làm điều thiện được. Muốn tâm mình li dục li bất thiện pháp thì phải có thiện xảo mới có li, không thiện xảo thì tâm không li dục.
Cho nên ở đây muốn làm tội thì cũng phải có khéo léo, làm tội cho thật gian hùng. Muốn cho không có tội thì chúng ta cũng phải khéo léo sử dụng, trau dồi tâm của mình để cho nó không có tội. Đó là những thiện pháp và ác pháp đều phải có thiện xảo trong đó.
9./ Giới thiện xảo và tác ý thiện xảo. Ở đây nói sử dụng giới hành, tức là khi sử dụng một pháp nào đó để tu cho được giải thoát trong pháp thiện đó thì chúng ta cũng phải khéo léo, chứ không phải vụng về mà tu tập