TÌM KIẾM

Pháp Tu Cư Sĩ - Tứ Vô Lượng Tâm (Bài 1)

18/04/2020Admin

TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC

GIÁO ÁN TU ĐẠO PHẬT


 

II.- PHÁP TU CƯ SĨ

TỨ VÔ LƯỢNG TÂM (Bài 1)

A.- THÀNH PHẦN VÀ HÀNH TƯỚNG CỦA TỨ VÔ LƯỢNG TÂM

Bây giờ Thầy sẽ tiếp tục dạy về trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm. Tại sao phải trau dồi nó?

Chánh Đức nói với Thầy: "Thầy cho con cái địa danh mà chưa cho con cái địa chỉ, địa danh thì chúng con biết rồi, nhưng mà địa chỉ chưa có thì làm sao chúng con tới nhà được".

Trong giai đoạn 1 người cư sĩ, bắt đầu khi chúng ta thông hiểu được Phật pháp rồi, thông hiểu được những giáo pháp mà Phật dạy cho người cư sĩ phải tu cái gì. Bây giờ các con đã hiểu cái gì rồi? Các thầy hiểu Thập Thiện, phải không? Thầy đã giảng Thập Thiện rồi thì đó là mình hiểu rồi. Nhưng các con chưa trau dồi, chưa tu tập gì được đâu. Nghe nói Thập Thiện nghĩa là thân không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu, v.v... nhưng các con chưa làm được. Nghe thì hiểu chứ chưa làm được đâu. Bây giờ trau dồi để làm cho được.Đây là vấn đề quan trọng, đây là cái địa chỉ để các con đi tới cái nhà Thập Thiện đó.

Bởi vậy, Thầy dạy cho các con biết cách thức để tu tập, chứ không thể nàobất đồ tự dưng nhào vô, ngang xương nhào vô tu tập để chứng thành đạo quả Bồ đề được liền đâu. Phải đi từng chút một, từng bước một. Cái tâm của chúng ta bây giờ đang là cái tâm tham sân si, mà không trau dồi nó thì làm sao nó hết tham sân si. Mà phải trau dồi bằng cách nào, lấy cái gì để trau dồi? Đâu phải hằng ngày mình nhắc nó hết tham, sân, si, rồi tự dưng nó hết tham sân si sao? Không đâu. Mình phải trau dồi cái gì để đối trị cái tâm tham sân si chứ.

Đức Phật nói tâm từ đối trị sân, cho nên, muốn hết sân thì phải trau dồi tâm từ. Bây giờ tâm chưa có từ mà lúc nào cũng nói giữ tâm không sân thì chắc chắn người đó không bao giờ có tâm không sân được. Vậy muốn trau dồi lòng từ của chúng ta thì phải trau dồi như thế nào, chứ đâu phải bảo nó "tâm từ", "tâm từ", "tâm từ", rồi có tâm từ được sao? Không có đâu. Cho nên chúng ta phải hiểu tâm từ trước.

Tâm có giá trị hay không là do ở chỗ rộng hẹp của nó. Muốn tâm có giá trị thì phải trau dồi, tập sống được như tâm Phật, tâm thương chúng sanh rộng lớn vô bờ, vô biên. Đó, mình phải tập sao cái tâm của mình rộng lớn được như vậy, trau dồi cho nó rộng lớn được như vậy thì mình mới thấy cái chỗ dứt ác, thể hiện thiện, thì mới có thểcó được tâm thương yêu rộng lớn. Tâm không thương yêu chúng sanh thì khó có thể dứt ác được. Bởi vì lúc người ta chửi mình, mình có tâm thương yêu rộng lớn thì mình đâu phải là người bình thường kia, cho nên mình mới thấy thương người chửi mình dễ. Nếu mình là người không có tâm thương yêu rộng lớn thì nghe người ta chửi mình, chưa chắc thương người chửi mình được. Nhưng cótu tập lòng từ thì khi người khác chửi mình, mình thương họ được. Có vậy mới là tâm từ đối trịtâm sân.

Cho nên chúng ta phải trau dồi thân tâm chúng ta cho đúng pháp. Hầu hết quý thầy cũng học Tứ Vô Lượng Tâm,chắc chắn quý thầy đã biết tâm từ, nhưng bảo quý thầy thương người chửi thì quý thầy không làm được. Thầy nói như vậy để quý thầy suy ngẫm lại con đường Thầy dẫn dắt quý thầy phải tập luyện từng chút. Tu là phải chịu khó tập luyện chứ đâu phải tu mà Thầy nói ran cổ họng, nhưng quý thầy nghe chơi không trau dồi, thì chắc chắn là Thầy mệt mỏi quá. Quý thầy phải rèn luyện, trui luyện từng chút cái tâm của quý thầy, để cho nó được từ, được bi, được hỷ, được xả. Có như vậy học mới lợi ích cho quý thầy, quý thầy mới giải thoát. Còn nếu Thầy nói để quý thầy nghe thôi thì thiệt là mệt mỏi cho Thầy, nghe để chơi thì thiệt là mệt mỏi cho Thầy. Đó là cái Thầy thấy quá khó, chớ không phải cái khó là biết ai là người nghe Thầy, ai là người không nghe.

Phật đã dạy, khi vào với đạo Phật, điều đầu tiên là người cư sĩ phải thông hiểu. Những gì thì Thầy đã cho quý thầy thông hiểu rồi đó. Những bài giảng trước là đem cho quý thầy sự thông hiểu đó, chứ chưa phải là sự tu tập. Cho nên Chánh Đức nói câu nói rất rõ ràng: "Thầy cho con cái địa danh, chứ chưa cho con cái địa chỉ". Đúng vậy! Mình phải thông hiểu tức là mình phải thông hiểu cái tỉnh đó, nơi đó ra sao, cái địa danh đó là gì, như thế nào... Mình phải thông hiểu tổng quát hết đi, rồi bây giờ bắt đầu cho địa chỉ để đến cái nhà đó.

Đó, như vậy là Thầy đã mở ra một cái vòng để cho quý thầy thông hiểu, rồi tới đây quý thầy sẽ trau dồi, thì tức là đưa ra cái địa chỉ để quý thầy đến nhà. Sau đây là cái địa chỉ chúng ta đi, đó là quý thầy phải trau dồi, rồi tu tập và đoạn dứt ác pháp.

Bây giờ quý thầy phải thông hiểu Tứ Vô Lượng Tâm như thế nào? Bây giờ mình nghe nói Tứ Vô Lượng Tâm, mình không biết tên họ nó là gì hết, không biết nó là sao hết, mình không hiểu nó là cái gì nữa thì như vậy là chỉ cái danh từ suông thôi. Cho nên mình cần phải hiểu thêm nó.

Tứ là bốn; Vô Lượng Tâm là tâm rộng lớn mênh mông, phủ trùm tất cả chúng sanh, không thể lường, không thể tính được. TứVô Lượng Tâm là bốn cái tâm rộng lớn phủ trùm tất cả chúng sanh, không thể tính lường được chỗ nào hết, nghĩa là vô bờ bến. Vô Lượng Tâm là tâm vô cùng rộng lớn, thoát ra khỏi mọi sự ràng buộc các dây mơ rễ má của mọi tâm lý tình cảm, thương ghét, giận hờn, tị hiềm, kiêu căng, nghi ngờ, ngã mạn của phàm phu, phá vỡ tà kiến, thân kiến, chấp kiến trước mọi trí tuệ mê mờ, lầm lạc.

Đó là cái tâm nó như vậy đó. Nó làm cho chúng ta, cái thứ nhất là chúng ta hiểu nó rộng lớn mênh mông; cái thứ hai, nó rộng lớn mà thoát ra ngoài những sự ràng buộc của những sự trói buộc tình cảm của chúng ta, rồi nó thoát ra ngoài những thương ghét giận hờn, tỵ hiềm, kiêu căng, ngã mạn, mà nó còn thoát ra ngoài những tà kiến, thân kiến, chấp kiến trước mọi trí tuệ mê mờ, lầm lạc. Đó, chúng ta trau dồi nó, để chúng ta thấy được, chúng ta thoát ra được, cho nên nó rộng lớn như vậy, nó phải phủ trùm hết. Phải hiểu biết nó rộng lớn cho nên không có một tà kiến, không có một tình cảm nào có thể xen vào Tứ Vô Lượng Tâm này được. Chứ không phải là chúng ta tu Tứ Vô Lượng Tâm mà chúng ta hiểu một cách cạn cợt thì làm sao rộng lớn được như vậy. Cho nên chúng ta càng trau dồi nó, càng ngày càng trau dồi nó thì nó càng rộng lớn và nó càng rộng lớn thì sự hiểu biết của chúng ta càng rộng lớn. Cho nên từ đó chúng ta mới thực hiện được tâm vô ngã, chứ đâu phải là dễ vô ngã. Nếu không có bốn cái tâm này Từ Bi Hỉ Xả, thì chúng ta khó thực hiện được tâm vô ngã.

Vô Lượng Tâm còn có nghĩa là đẳng tâm, là tâm bình đẳng. Tâm này tự nhiên, không so đo, cao thấp, hơn kém, phổ biến, ban rải mọi nơi, mọi chỗ, không giới hạn. Nghĩa là cái tâm bình đẳng không thấy có người hơn mình, không thấy mình hơn người, người nào cũng bình đẳng hết, từ con vật nhỏ tí ti cũng bình đẳng với mình, nghĩa là xem nó như mình chớ không thấy nó là con vật nhỏ.

Còn chúng ta thì thấy có lớn, có nhỏ, đối xử với nhau nghe có khác lạ. Thấy con kiến thì mình đối xử như một con vật, chớ còn người mà tâm vô lượng này thì họ đối xử con vật như chính đối xử với một con người khác. Đó là những định nghĩa để chúng ta thấy được tâm vô lượng rộng lớn như vậy, nó vượt thoát mọi tà kiến, chớ không phải hẹp hòi ở trong chữ ban rải đối với chúng ta thương yêu một cách cạn cợt. Khi hiểu biết được như vậy thì chúng ta hãy cố gắng trau dồi nó, làm cho nó được rộng lớn như vậy.

Do trau dồi tâm bình đẳng này làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh thoát khổ, nên tâm này có công năng mang đến cho con người vô lượng phước báu. Nghĩa là trau dồi tâm bình đẳng này thì không bao giờ làm phiền lòng người nào hết, bởi vì mình biết ai cũng như mình hết, mình biết ai cũng thọ khổ như mình hết cho nên trước cái khổ của họ thì mình dùng tâm bi liền tức khắc. Người ta đang tức giận mình, thì ngay đó là tâm bi mình phải thực hiện liền. Như Thầy đã dạy, tâm từ là khi người ta bình thường, người ta không giận, không hờn gì hết thì tâm từ của mình đối xử mọi người rất là kính trọng họ, rất là cung kính họ, luôn luôn không bao giờ nói một lời nặng với họ, đó là tâm từ. Còn tâm bi là khi thấy người ta giận thì ngay đó biết người ta đang khổ, do đó mình thực hiện tâm bi là trước cái khổ của người khác, một người đang bị bệnh, một người đang bị tai nạn thì mình mới dùng tâm bi. Tới cái chỗ đó Thầy sẽ dạy rất kĩ cho quý thầy thấy để chúng ta trau dồi tâm bi như thế nào, mà trau dồi tâm từ như thế nào.

Nếu Tứ Vô Lượng Tâm này, cái tâm bình đẳng này mà chúng ta đã trau dồi được thì thế giới này, con người này hưởng hạnh phúc, an vui, thanh bình, không bao giờ có chiến tranh, không bao giờ có giặc giã hết. Bởi vì, từ con vật mà chúng ta còn biết thương y như mình thì thử hỏi con người làm sao chúng ta không thương? Con người đã thông cảm những nỗi khổ của nhau trong cuộc sống, có đâu lại tranh giành giết nhau. Cho nên tâm từ biến chúng ta trở thành một con người chung của mọi người. Bốn tâm vô lượng này không những làm lợi ích cho chúng sanh an lành, hạnh phúc mà còn ban rải cho mọi nhà, mọi nước và cả thế giới trật tự, an ninh, thanh bình, không chiến tranh.

Vô lượng ở đây quý thầy phải hiểu nó bao hàm nhiều nghĩa chứ không phải như hồi nãy Thầy nói tổng quát, chung chung để cho quý thầy thấy cái vô lượng của nó. Nhưng ở đây chúng ta phải phân ra để thấy được từ vô lượng có mấy nghĩa bao hàm sau:

1. Vô lượng nhân lành: đem lại nhân lành cho mọi người, không làm cho ai bị nhân ác nào. Chẳng hạn một người chửi Thầy, Thầy nhịn, Thầy nhẫn, Thầy không bao giờ chửi lại họ, mà Thầy còn xuống nước năn nỉ họ, làm cho họ mát lòng, mát dạ, tức là gieo cái nhân lành cho họ, họ không còn chửi Thầy nữa. Đó là vô lượng nhân lành. Còn nếu nghe người ta chửi mình mà mình chửi lại, đó là cái nhân ác, nó tiếp tục cái nhân ác khác nữa.

2. Vô lượng quả đẹp: Nghĩa là đem đến cho cuộc sống của chúng ta luôn luôn đẹp đẽ, không bao giờ có sự phiền toái trong đó, cho nên gọi là vô lượng quả đẹp. Vô Lượng Tâm đến đâu thì đem cái đẹp đẽ đến đó, cái an vui đến đó.

3. Vô lượng chúng sanh: đối với chúng sanh nào cũng được an lành, cũng được đẹp đẽ hết chứ không phải riêng có con người thôi, mà có cả loài vật. Thầy ví dụ, như chúng ta có những y áo bị một bầy kiến vào; chúng ta thực hiện tâm từ thì không bao giờ chúng ta làm thương tổn đến sinh mạng của con kiến. Chúng ta nghĩ tiếc bộ quần áo, y áo của mình, đem mà đập, giũ thì biết bao nhiêu con vật chết. Như vậy là quý thầy không có trau dồi tâm từ. Loài vật biết trời mưa, trời gió mới vô đó để nó nằm, nó ẩn núp ẩn mưa, ẩn gió lạnh. Chúng ta không có thương, không nghĩ đến cảnh khổ của loài vật. Giả dụbây giờ như mình ở ngoài trời trong khi trời mưa trời gió chúng ta có chịu nổi không? Thì con kiến nhỏ nhít hơn, nó lạnh lẽo nên nó trốn, nó sợ nước trôi chết đi, nó quá sợ, nó vô nhà chúng ta. Nếu chúng ta không muốn nó vào núp trong y áo, vào trong nhà thì chúng ta tìm cách ngăn ngừa nó trước đi, nó không vô, nó đi chỗ khác lánh thân. Đằng này để cho nó bò ngập nhà mình, rồi quét, rồi đùa, rồi hốt, rồi đốt, rồi giải thì thử hỏi tâm từ của chúng ta chỗ nào, như vậy có đau khổ chúng sanh không? Như vậy là không có vô lượng chúng sanh được.

4. Vô lượng thế giới: nghĩa là tất cả thế giới, không phải trong cái thế giới của chúng ta không mà cả thế giới trùng trùng điệp điệp trong không gian này. Thế giới nào chúng ta cũng phủ trùm hết.

5. Vô lượng đời kiếp: nghĩa là từ kiếp này đến kiếp khác, tức là nói về không gian thì vô lượng thế giới, mà nói về thời gian thì vô lượng đời kiếp. Nghĩa là kiếp nào, đời nào nó cũng đẹp đẽ, cũng tốt đẹp, đem đến cho mọi người, mọi sinh vật ở trên thế giới này đều được an lành, đều được tốt.

Đó là năm điều rộng đẹp như vậy bao hàm trong nghĩa của vô lượng.

Bây giờ Thầy nói về thành phần của bốn cái tâm vô lượng này. Thành phần và hành tướng của bốn tâm vô lượng là:

1. Từ vô lượng

2. Bi vô lượng

3. Hỷ vô lượng

4. Xả vô lượng

B.- TRAU DỒI TÂM TỪ VÔ LƯỢNG

Tâm Tâm Từ Vô Lượng là gì? Tâm Tâm Từ Vô Lượng là lòng mến thương của chúng ta vô cùng vô tận đối với tất cả chúng sanh, từ cây cỏ thảo mộc cho đến loài động vật. Dù con vật hung dữ chúng ta cũng ban rải lòng từ, tránh vô tình gây đau khổ cho chúng sanh; thương mến, đem lại cho chúng sanh cái vui chân thật, cái vui mà do chính lòng từ mang đến, làm cho vạn vật vui mừng, cỏ cây tươi tốt, trong đó có mình.

Ở đây Thầy giới thiệu về Tâm Từ Vô Lượng là nó gần gũi, hồi nãy thì nó bao la mênh mông, lần lần nó đi gần tới cái chỗ hạn hẹp, gần chúng ta thì chúng ta phải thấy cái lòng thương của chúng ta như thế nào.

Đây là cái phần hạn hẹp đối với cỏ cây, cho nên đức Phật đi không có đạp lên cỏ nữa, đó là cái hành của Phật ngày xưa, thân hành của Phật đi không có giẫm đạp lên cỏ, tránh cỏ, sợ nó bị giẫm đạp nó dập, nó héo úa mà thương xót nó đến như vậy. Đó là cái hành của Phật đối với loài thảo mộc, còn chúng ta thì không như vậy. Cho nên ông Phật ông chấp nhận là theo đạo ổng thì lấy cái nghề đi xin ăn, không có làm hại một con vật, một cây cỏ nào hết. Còn chúng ta thì đụng đâu bứt bỏ hết, nghĩa là bứt đầu nó hết, nhổ luôn cả rễ nữa chứ đừng nói. Còn ông Phật thì không dám đạp lên, còn chúng ta thì đạp bừa lên hết, chỉ miễn là mình sạch sẽ thôi. Thật sự ra thì mình nghĩ rằng mình tu tập chứ chưa giống ông Phật chút nào hết, mình còn xa ông Phật lắm. Ông Phật tổ chức giáo đoàn của ông ta cũng vậy, khuyên lơn đừng có thế, thậm chí món ăn thừa thì ông cũng không cho bỏ ở trên cỏ nữa, sợ cỏ vì cái chất mặn sẽ héo úa đi, bỏ ngoài đất trống; thì đủ biết lòng từ của đức Phật như thế nào rồi. Do theo đạo Phật, chúng ta hãy cố gắng mà thực hiện cái Tâm Từ Vô Lượng này.

Nói về lòng từ thì chúng ta phải phân biệt được cái vui này. Trong đời sống chúng ta có hai cái vui:

1. Cái vui bền bỉ chân thật.

2. Cái vui ngắn ngủi, giả tạm.

Như Phật đã dạy, là làm sao cho người vui mà mình cũng vui và tất cả sanh linh, cỏ cây đều vui tươi. Đó là cái vui lâu dài, chân thật. Đó là cái tâm từ, bi, hỷ, xả của chúng ta ban rải khắp muôn loài vạn vật. Cái vui đó bền bỉ, không bao giờ biến hoại, dù trước bất cứ cảnh nào cũng ban rải lòng từ khắp nơi. Vì thế mà sự vui kia mới được lâu dài. Hôm nay quý thầy nhận ra được cái vui mà cái vui lâu dài và cái vui không lâu dài. Rồi cái vui không lâu dài thì chắc các thầy tưởng tượng ra cũng được rồi. Thầy chưa giải thích nhưng các thầy cũng sẽ hiểu được rồi, chớ không khó gì.

Trong đời sống của chúng ta có hai cái vui. Cái vui thứ nhất là cái vui bền bỉ chân thật. Và cái vui thứ hai là cái vui ngắn ngủi giả tạm. Như Phật đã dạy là làm sao cho người vui mình vui và tất cả chúng sanh cỏ cây đều vui tươi. Đó là cái vui lâu dài chân thật. Đó là cái tâm từ bi hỷ xả của chính chúng ta ban rải khắp muôn loài vạn vật. Cái vui đó là cái vui bền bỉ lâu dài không bao giờ biến hoại, dù trước bất cứ cảnh nào cũng ban lòng từ rải khắp nơi. Vì thế mà sự vui kia mới lâu dài.

Còn cái vui ngắn ngủi, giả tạm, là cái vui còn bị phiền não chi phối, khi tham sân si mạn nghi đòi hỏi được thì thỏa mãn, thì vui, còn ngược lại thì buồn khổ. Cái vui này là vui theo dục lạc, được thì vui, mất thì buồn. Như chúng ta đã biết, dục lạc không bao giờ có thể thỏa mãn được hoàn toàn. Phật dạy: Kẻ ngu si, vô minh mới chạy theo vui dục lạc, nó là thứ dục lạc ảo giác, đâu có thật, chỉ có người trí mới biết mà thôi. Bởi vậy, cả hai lộ trình của Đạo Phật mà Thầy đã dẫn dắt chỉ cho các thầy biết để tu tập trên hai lộ trình này là tìm cái vui chân thật, nơi đó bền lâu, thoát ra ngoài vòng phiền não tham, sân, si, mạn, nghi và không bị dục lạc chi phối. Nó không ồn náo sôi nổi, ầm ĩ. Nó nhẹ nhàng, thầm lặng như một bóng, một hình trong cái vui của cảnh giới siêu phàm giải thoát nhưng lại hòa mình trong vạn hữu của vũ trụ. Cái vui bất tuyệt của vạn pháp, cô đơn mà lại không cô đơn.

Ở đây, quý thầy thấy mình phải chọn cái vui nào là thật, mà tránh cái vui giả, vì Tứ Vô Lượng Tâm là tâm từ bi hỷ xả của chúng ta đem đến cho chúng sanh nguồn vui. Mà nguồn vui ở đây có hai nguồn vui: nguồn vui chân thật và nguồn vui không chân thật. Cho nên chúng ta phải biết nguồn vui nào không chân thật và nguồn vui nào chân thật. Vì vậy phải so sánh hai nguồn vui này để chúng ta tránh nguồn vui không chân thật, mà hãy tìm nguồn vui chân thật để chúng ta thực hiện cái Tứ Vô Lượng Tâm này, để đạt được nguồn vui chân thật đó. Nếu không có 4 tâm vô lượng này thì không bao giờ chúng ta tìm ra được nguồn vui chân thật đó. Do vì vậy, muốn tìm được nguồn vui chân thật thì quý thầy phải hằng ngày trau dồi thân và tâm của mình trong ba hành động của nó. Nghĩa là thân hành, khẩu hành và ý hành. Hằng ngày trau dồi 3 hành động của thân chúng ta như vậy thì chúng ta sẽ có được một nguồn vui chân thật và tâm thương yêu của chúng ta càng lúc càng rộng lớn.

Muốn được vậy thì chúng ta, người cư sĩ cũng như người tu sĩ, phải hằng ngày trau dồi thân tâm mình bằng pháp môn Tứ Vô Lượng Tâm như Thầy đã nói ở trên. Vậy trau dồi như thế nào?

Trong thân ta có ba hành: một là thân hành, hai là khẩu hành, ba là ý hành.

1. Thân hành có hai: một là chân hành, hai là tay hành.

2. Khẩu hành có hai: một là ăn, hai là nói.

3. Ý hành có ba: một là ý thiện, hai là ý ác, ba là ý bất thiện bất ác.

1.- Trau dồi Từ tâm nơi thân hành

Ở đây quý thầy khi muốn trau dồi nó thì quý thầy biết trau dồi chỗ nào? Cho nên ở đây Thầy vạch ra để cho quý thầy thấy chúng ta phải trau dồi trong những hành động để nó thực hiện được tâm từ bi hỷ xả ở nơi ba hành động đó. Mà mỗi hành động thì nó phải có những hành động riêng của nó như chân mình đi, tay mình thì cầm nắm bắt. Phải theo hành động đó mà trau dồi tâm từ bi hỉ xả của mình ở tại hành động đó.

Còn về khẩu (về miệng) thì cũng có hai hành. Một là hành ăn, hai là hành nói. Như vậy thì chúng ta phải trau dồi cái ăn và cái nói của mình. Chứ nếu không, nói ra thì làm buồn khổ người, mà ăn không đúng cách thì nó làm hại thân mình. Cho nên tất cả những cái này đều làm cho chúng ta buồn khổ, không vui được.

Về ý hành thì có 3, nó nhiều hơn hai cái hành kia. Nó có cái thiện, cái ác và cái bất thiện bất ác.

Cho nên chúng ta phải trau dồi, và lấy Tứ Vô Lượng Tâm trau dồi ba cái hành động của thân để cho chúng ta thực hiện được cái tâm vui mừng, cái tâm rộng lớn, cái tâm biết thương yêu, cái tâm biết thương xót tất cả mọi loài.

Bây giờ quý thầy bắt đầu trau dồi Từ tâm nơi thân hành của mình, nghĩa là bắt đầu vô mình trau dồi liền. Trước kia Thầy giới thiệu cho quý thầy biết Tứ Vô Lượng Tâm như thế nào, rồi bây giờ chia nó làm hai cái vui của nó: cái vui lâu dài và cái vui ngắn ngủi giả tạm. Bây giờ chúng ta vào ngay trau dồi. Còn nếu lý thuyết lòng vòng mà không đi thẳng vào sự trau dồi thì chắc chắn chúng ta chẳng đi tới đâu được hết. Nghe nói mà không biết cách thực hành, không biết cách làm thì Tứ Vô Lượng Tâm này chẳng qua chỉ nói suông thôi, chứ không thể nào thực hiện được cái tâm từ bi hỷ xả chúng ta. Một lời nói mà chúng ta không nhẫn với nhau, không nhường nhau, một ý kiến mà chúng ta không thuận nhau, chúng ta có sự tranh chấp thì làm gì mà có sự vui trong đó được, làm gì có lòng từ, lòng biết thương nhau được! Cho nên tất cả những cái này là những điều những người cư sĩ thường tiếp giao với nhau, với mọi người thì phải tu tập Tứ Vô Lượng Tâm càng nhiều càng tốt để đem lại sự an vui cho mình, cho mọi người xung quanh mình.

Bây giờ chúng ta trau dồi về chân của chúng ta. Khi chúng ta đi thì phải dùng theo hành động đi của chúng ta với pháp hướng mà đức Phật dạy trong kinh là Như Lý Tác Ý. Tác ý theo hành động đó bằng pháp hướng tâm, tức là chúng ta dùng một câu như thế nào để gợi lên lòng thương yêu của chúng ta đối với chúng sanh khi bước đi. Ở đây Thầy xin nhắc quý thầy đây không phải tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Định bằng hành động mà mượn hành động chân đi để thực hiện tâm từ của chúng ta dưới bàn chân, dưới bước đi của chúng ta. Cho nên chúng ta dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý khi chúng ta bước chân đi. Pháp hướng như thế nào? Thầy đọc các câu ví dụ để rồi quý thầy tùy theo đó mà tự mình soạn ra pháp hướng cho phù hợp với đặc tướng của mình thì áp dụng sẽ có hiệu quả. Còn đây chỉ là câu ví dụ để cho quý thầy mượn đó mà bắt chước mà thôi. Nếu quý thầy lấy câu ví dụ này mà áp dụng vào mình thì chưa hẳn là đúng đặc tướng của mình. Đạo Phật khó là ở chỗ phải biết áp dụng đúng pháp hướng thì mới có hiệu quả, mà áp dụng không đúng pháp hướng thì nó không có hiệu quả. Đây, Thầy đem một câu ví dụ, trước khi chúng ta áp dụng câu pháp hướng để trau dồi tâm từ bi của mình mà nếu mình không biết hướng thì khó có thể áp dụng cho đúng cách, thì nó không có kết quả tốt cho sự tu tập này.

Còn như người ta nói tâm và ý. Vậy thì lúc nào gọi cái tâm, lúc nào gọi là cái ý? Cái ý là nó có cái ý căn, là cái bộ óc của chúng ta. Còn cái tâm thì nó không có cái tâm căn. Bởi vì nếu nói cái tâm thì nó phải có cái tâm căn chớ? Nhưng mà ở đây Phật dạy chúng ta là ý căn chứ không có bao giờ nói tâm căn. Cho nên khi chúng ta gọi cái căn của ý là nó phải đúng là cái chỗ ý căn của nó, tức là cái chỗ nó làm việc. Vì vậy mà pháp hướng tâm Như Lý Tác Ý phải như cái lý đúng của nó thì chúng ta tác ý mới có hiệu quả.

Ở đây Thầy nhắc như vậy thì quý thầy phải nhận thấy được chỗ dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý phải đúng lúc, đúng thời hợp, với đặc tướng của mình thì có hiệu quả rất nhanh, còn nếu không như vậy thì không hiệu quả. Cho nên cũng có nhiều người hướng tâm tu tập, nhắc tâm mình rất nhiều nhưng sao thấy nó trơ trơ không kết quả, đó là do mình đặt không đúng tên, đúng họ, đúng trường hợp của nó làm, cho nên nó không hoạt động được.

Đây là câu ví dụ cho quý thầy khi bước đi thì quý thầy hướng tâm. Khi quý thầybước đi thì quý thầy nhắc từng bước như thế này:

“Dưới bước chân ta đi có nhiều loài sinh vật nhỏ nhít, có nhiều loài thảo mộc cỏ cây yếu mềm. Ta hãy bước nhẹ nhàng để tránh tất cả sự đau khổ và chết chóc của muôn loài.”

Đó là một câu để quý thầy nhắc trước khi quý thầy bước đi. Khi nhắc như vậy thì tâm quý thầy tỉnh thức ngay tại ở nơi bước đi và quý thầy tránh tất cả những con vật dưới bàn chân quý thầy. Rồi đi một lúc, sợ quên hướng tâm nên quý thầy lại nhắc lại câu đó nữa. Do sự nhắc nhở, do sự sợ làm đau khổ, sợ làm chết chóc muôn loài, nên câu hướng tâm gây cho quý thầy có một tâm thương yêu, thấm thía trong đó. Mà hàng ngày chúng ta đều trau dồi từng bước đi của chúng ta như vậy thì lòng từ của chúng ta ban rải khắp chúng sanh. Một cọng cỏ mà chúng ta không nỡ đạp lên, sợ đạp lên cỏ mềm yếu rồi nó héo úa đi, tức là thể hiện tâm từ của chúng ta ban rải khắp chúng sanh đó. Vừa đi nhẹ nhàng vừa hướng tâm nhắc như vậy lâu ngày tâm ta có lòng từ thương xót tất cả chúng sanh.

Vì hướng tâm nhắc như vậy lâu ngày huân tập trong tâm chúng ta thành một thói quen thương xót chúng sanh. Ở đây quý thầy đã thấy câu Thầy tạm dùng làm câu hướng tâm để trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm, mà khi trau dồi được Tứ Vô Lượng Tâm, cái tâm thương yêu như vậy thì người ta chửi mình, mình có giận nữa không? Khi thể hiện tâm từ được như vậy thì người ta nói một câu nói trái bụng mình, mình có giận không? Không bao giờ còn giận nữa. Cho nên Phật nói từ tâm đối trị tâm sân.

Nhưng mình phải trau dồi nó. Cho dù mình nói quán, như quán từ bi để đối trị tâm sân, nhưng mình không trau dồi tâm từ thì cái tâm sân của mình có hết không? Khi nghe người ta mắng chửi mình thì mình nói: Ừ, tôi cũng biết Tứ Vô Lượng Tâm, tâm từ là đối trị tâm sân. Tôi thường quán phải thương người bằng cách này bằng cách khác, hằng đêm tôi ngồi tôi quán luôn luôn lúc nào tôi cũng thương. Nhưng mà tại sao người ta chửi mình là mình giận, mình dữ lên? Cái đó là do mình chưa trau dồi trong hành động. Có trau dồi trong hành động thì nó mới thể hiện qua hành động của chúng ta. Cái tâm chúng ta thường nhắc trong các hành động, nó làm cho chúng ta thấm nhuần được lòng thương yêu đó.

Còn bây giờ chúng ta ngồi ở trên ghế chúng ta nói bây giờ chúng ta cũng quán từ bi hỷ xả.Đó là quán, còn cái này là hướng, nó khác. Hướng theo hành động mà trau dồi, nó ở trong cái động. Còn quán là mình ngồi im lìm, rồi tư tưởng mình khởi nghĩ ra, quán mình phải thương yêu chúng sanh bằng cách này bằng cách khác, như thế này hay thế khác. Quán không biến ra hành động cho nên không trau dồi từ bi cho thân tâm của mình được. Cho nên quán chỉ là cách tránh né trong một lúc nào đó để cho mình bớt giận hờn phiền não trong lòng mà thôi, rồi mình suy tư cái này cái kia để cho mình xả bớt cái tâm buồn khổ của mình, chớ đối tượng của mình, mình đã chửi người ta hồi chiều rồi thì làm sao mà xoá sạch cái phiền não được? Còn trau dồi là tu ở trong những hành động để chúng ta biến dần cái tâm từ bi, cái tâm thương yêu chân thật của chúng ta thành sự thật.

Đó là cách thức mà Thầy giảng ra đây để cho quý thầy thấy được cái chỗ chúng ta sẽ tập luyện. Bởi vì đây là vai trò của người cư sĩ khi mới bước chân vào đạo Phật các người cư sĩ đã luyện tập cái này rồi chớ không phải là vai trò của người tu sĩ. Khi đã đi sang giai đoạn của tu sĩ là giai đoạn giữ gìn giới luật, tu tập thiền định. Nó không thể nào còn có thời gian mà chúng ta tu tập thiền định nữa. Đợi tới khi làm Bồ Tát rồi ta mới trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm thì quá trễ. Còn giai đoạn của người cư sĩ là phải thực hiện tâm từ, tâm bi, tâm hỉ, tâm xả của mình để đối xử với nhau với một lòng thương yêu, làm cho xã hội ngày càng tốt, đất nước thanh bình, không có sự tranh chấp, không có sự tranh đua hơn thiệt với nhau. Do có tâm từ nó mới không có những tai nạn đó.

Đó là hành động khi chúng ta đi. Bây giờ tới cái hành động khác nữa. Khi chúng ta đứng lại chúng ta cũng nhắc vậy. Khi mình đi thì thường nhắc câu hướng tâmtrên, mà khi mình đứng, không còn đi nữa, mình phải nhắc một câu khác để hướng tâm như cái lý trong khi mình đứng:

“Chúng sanh quanh ta rất nhiều từ loài côn trùng nhỏ nhít cho đến các loài thảo mộc yếu mềm, ta đừng đứng trên chúng, vì đứng trên chúng chúng sẽ đau khổ và chết chóc, héo úa.”

Đó là một câu để chúng ta hướng tâm trau dồi lòng thương yêu đến với tất cả muôn loài.

Hôm nay khi quý thầy đã học được những câu hướng tâm như vậy thì quý thầy nhớ khắc ghi trong lòng. Hằng ngày ít ra quý thầy cũng tập nó được ba, bốn lần; chứ đừng có học rồi xếp lại đó, để đó, thì cái công của Thầy giảng dạy quý thầy như thế này, Thầy thấy mệt mỏi vô cùng. Vì quý thầy được học thì phải tu tập để đền đáp lại ơn Thầy. Thầy đã đem hết sức mình ra giảng dạy cho quý thầy từng câu nhắc nhở nhỏ bé như vậy, để tạo cho quý thầy có lòng thương yêu chơn thật nơi tâm hồn của quý thầy, để khi đứng trước các đối tượng quý thầy thoát ra khỏi cảnh đau khổ chính bản thân của quý thầy. Thế mà học rồi quý thầy xếp bỏ vào một góc nào đó, thì thiệt là mỏi mệt cho Thầy vô cùng.

Có tu tập như vậy thì lòng ta từ từ thấm nhuần lòng từ bao la thương yêu tất cả muôn loài vạn vật muôn phương. Nếu khi đứng, chúng ta cũng tập như vậy để nhắc nhở chúng ta đứng tránh gây những sự đau khổ cho chúng sanh, thì nhờ đó giúp cho chúng ta có được một lòng thương, từ đó lòng thương này sẽ thấm nhuần muôn vật, muôn phương.

Bây giờ đến hành động nằm. Bởi vì thân của chúng ta có bốn hành động đi đứng nằm ngồi. Cho nên bây giờ tới cái hành động nằm. Khi nằm ta cũng nhắc như vậy. Nghĩa là mỗi hành động chúng ta phải nhắc, và một ngày chúng ta có bao nhiêu lần đi, đứng, nằm, ngồi, mà mỗi lần đi đứng nằm ngồi là mỗi lần nhắc như vậy thì trong một ngày chúng ta đã thấm nhuần được rất nhiều lòng thương yêu. Tức là chúng ta trau dồi được rất nhiều lần. Một người thợ vót tên, mà ông ta ngồi vót kỹ lưỡng hẳn hòi thì cái tên phải suôn, phải láng, phải tốt. Cò