TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC
GIÁO ÁN TU ĐẠO PHẬT
II.- PHÁP TU CƯ SĨ
TỨ VÔ LƯỢNG TÂM (Bài 5)
E.- TRAU DỒI TÂM XẢ VÔ LƯỢNG (Bài 2/2)
3.- XẢ TÂM DANH
Bây giờ đến xả vô lượng tâm danh để chúng ta biết không phải chỉ có một cái danh, cái danh có rất nhiều. Hồi nãy là mình xả tiền của, bây giờ tới cái danh. Sắc, rồi tiền của, rồi danh, có 5 thứ dục lạc, bây giờ mình tới được phần thứ 3 là xả cái danh.
Danh là gì? Là tiếng khen, tiếng ca ngợi, tiếng tán thán, tiếng tốt đẹp, vinh quang, hiển hách, chứng ngộ, chứng đạo, được trao truyền quan chức, trao truyền tâm ấn, cấp bằng này, cấp bằng nọ, đại đức, thượng tọa, hòa thượng, sư bà, sư trưởng, giám đốc, phó giám đốc, viện trưởng, viện chủ, trưởng ban, phó ban, giáo chủ, pháp chủ, thiền đức, cao tăng, giới đức, thánh hiền, thần, thánh, tiên, Phật... đều là những danh từ chỉ cho danh.
Các thầy thấy rõ cái danh, nó làm cho chúng ta mê thích lắm. Ai mà không muốn làm trụ trì? Ai mà không muốn làm viện trưởng? Ai không muốn làm viện chủ? Người nào mà được gán cho mình là giáo chủ, viện chủ, rồi thiền chủ, pháp chủ, rồi cao tăng, rồi giới đức… thích lắm. Coi như là bậc vĩ đại rồi, hơn thiên hạ rồi, ngồi trên thiên hạ rồi. Đó là cái danh mà. Cho nên thần, thánh, tiên người ta cũng ca ngợi vì vậy mà những cái danh đó làm cho con người thích lắm. Mà khi được cái danh như vậy thì người ta khoái vô cùng tận. Người ta thấy mình trên hết rồi. Do cái danh như vậy nên chúng sanh mê muội, bị cám dỗ, bị lôi cuốn, bị thu hút như đá nam châm. Khiến cho con người chạy theo danh quá nỗi mệt mỏi, cuồng loạn trong tâm của mình. Vì vậy có người thất vọng, tự tử, quyên sinh. Chạy theo cái danh mà không đạt được, cho nên có nhiều người thi cử rớt thì thôi thôi đi tìm cách tự tử cho rồi. Có phải ngu si không? Đi cầu cái danh giả hão như vậy không được mà lại đi quyên sinh cái thân mạng này. Có người thì mệt mỏi thất bại danh lợi rồi vô chùa để tu, thiệt là điên khùng. Chạy theo danh giả đó là những sự cám dỗ của nó làm cho chúng ta quá u mờ, không có thấy được cái ngu đó.
Danh nhỏ là thầy thợ, nghĩa là mình làm người tôi tớ thì thấy nó xấu xa quá cho nên mình học, để làm ông thầy, mình dở dở thôi làm ông thợ cũng ngon hơn là làm thằng đầy tớ. Đó là cái danh nhỏ đó, nó cũng là cái danh. Danh lớn là ông này bà kia, danh nhỏ là thầy thợ, thầy ký, thầy thông, thầy này thầy kia nghe cũng thơm. Thầy giáo cô giáo thì nghe cũng khoái còn hơn người ta nói là con đầy tớ hay là thằng ở thì nghe nó nhục nhã quá. Phải không?
Cho nên chúng ta đều bị ở trong cái danh lôi cuốn chúng ta. Rồi từ cái danh nhỏ lần lần đi tới cái danh lớn. Để thành ông này bà kia, rồi người cai quản cái này, người cai quản cái kia để coi như mình có chủ động điều khiển được một số người dưới tay của mình. Như thí dụ về quân đội thì có ông phó đội trưởng, rồi đội trưởng, rồi ông trung đội trưởng, rồi đại đội trưởng, … Đó, các con thấy tất cả những cái đó là cái danh để cho thấy cái quyền hạn của người ta ở trong cái danh đó làm được những gì đó, cho nên người ta ham lắm. Từ ông tiểu đội phó mà lên cho được ông đại tá, mà khi được làm ông đại tá thì mặt họ nghênh nghênh ở trên trời, họ coi nhưở dưới đất này không còn ai hết. Đó là cái danh. Cái danh làm cho cái ngã họ lớn lên, điên khùng, chớ họ cũng chỉ là một con người bằng xương bằng thịt, cũng đau cũng khổ, cũng buồn cũng khổ cũng nhức nhối như mình, chứ khác gì đâu. Thế mà gán cho cái danh thì họ thấy họ hơn hết. Cho nên khi gán cho họ cái danh rồi thì có nhiều người thấy họ bèn khúm núm, khúm núm. Họ là cái gì mà phải khúm núm? Họ cũng như mình, có gì đâu mà phải sợ. Chỉ có cái danh không mà chúng ta đã quá sợ rồi.
Ở đây Thầy xác định để cho chúng ta thấy cái danh cám dỗ chúng ta rất mạnh như vậy, làm cho chúng ta phải sợ hãi như vậy. Từ những cái danh này mà người ta điên khùng, vào luồn ra cúi, nịnh bợ, ton hót để cầu cho được cái danh. Có nhiều người đi thi phải đem tiền bạc, lo lót tiền bạc để cho đậu. Đó không phải đem tiền để mua danh sao? Đó là những cái sai, cái không đúng mà người ta lầm chấp, vì cái danh nó cuốn hút họ quá. Họ muốn có cái tên tuổi như thế này nhưthế khác. Cũng như Thầy nói như thế này: có nhiều người không ai biết đến hết, bây giờ đùng ra cái họ tập trung một số người đi làm từ thiện, kêu gọi nhau đóng góp. Để làm gì? Đó chẳng qua cũng là cầu danh từ thiện chứ chưa chắc là họ đã thương yêu người khác thật. Làm những việc bố thí đó, người ta nhận giấy tờ này giấy tờ kia đầy ắp lên để làm gì? Để mai mốt đem ra khoe tôi bố thí chỗ này chỗ kia. Đó không phải là danh sao? Danh từ thiện, danh tôi biết thương người. Nhưng mà thật sự ra hở ra một chút thì mắng người không nhịn. Các thầy có xét thấy không, có nhiều người làm từ thiện, họ có nhịn ai không? Họ chửi người ta như tát nước. Vậy mà họ thương người à? Hơi hơi chạm đến họ một tí là coi như họ muốn giết mình! Mà là họ làm từ thiện.
Bởi vì đời nó giả dối, đủ thứ giả dối hết. Người tu mà đi đâu cũng có tiền hô hậu ủng, đầy đường chật xá để chứng tỏ có nhiều người hầu hạ theo mình. Một ông thầy tu mà đi rần rần rộ rộ, năm mười chiếc xe để làm gì? Để tỏ cái danh chứ gì, để có người hầu kẻ hạ chứ gì. Đi đâu cũng tổ chức Phật tử rần rần rộ rộ. Một bậc chơn tu mà đi như vậy! Làm ra cái vẻ như là vua chúa, chứ đâu phải là người tu. Thầy nói ra thì đụng chạm hết cả đám nhưng phải nói, tu phải ra tu, mà không tu thì không tu, chứ đừng làm cái trò trống bệ vệ trong cái danh của mình, để khoe khoang cái giàu sang, cái tài ba của mình. Với sự tài ba của con người có nhằm nhò gì mà khoe khoang. Khoe tài sản của cải là khoe danh giàu sang.
Tóm lại, danh là một thứ dục lạc cám dỗ và nuôi lớn bản ngã con người. Các thầy thấy bản ngã con người lớn theo cái danh của nó chớ không phải nó nhỏ đâu. Cho nên mới làm một người đầy tớ hôm qua mà bữa nay lên làm quan rồi thì cái mặt cái thằng đầy tớ nó ngước lên. Thầy nghe nói câu chuyện như thế này: Có một thằng đánh xe ngựa cho Yến Anh, (Yến Anh làm thừa tướng cho vua Tề),ông ta chỉ là thằng đánh xe ngựa thôi mà ổng đi ra đường ổng hét la người ta tùm lum hết, ổng coi nhưổng là Yến Anh vậy. Các thầy nghĩ như thế nào? Mượn cái oai danh của Yến Anh mà làm oai với thiên hạ, coi như mình là thằng ngon rồi. Đó là mượn danh, chứ chưa phải là cái danh thật của mình mà còn làm như vậy. Bà vợ nẹt ổng, sau đó ổng mới rút đầu lại. Thiệt ra thì cũng có bà vợ có trí, chớ nếu không, vợ chồng cùng vênh váo. Đó là chuyện thằng đánh xe của quan Thừa tướng Yến Anh. Hôm nay Thầy nhắc lại những câu chuyện người xưa, cho thấy điều đó là vì cái danh đó chứ đâu phải cái gì khác.
Cho nên người tu hành mà biết xả tâm vô lượng danh này thì phải dùng pháp hướng Như lý tác ý. Các con phải nhắc pháp hướng để cho nó biết cái danh là thứ gì, không khéo cái ngã của chúng ta bừng lên theo cái danh đó. Chúng ta phải đánh sập nó xuống, đánh nhẹp nó xuống, không để nó ngóc đầu lên. Cái ngã ham danh lắm, mỗi mỗi chút chút là nó ham danh. Do ham danh đó mới có những anh hùng cá nhân, cho nên người ta không có làm việc lớn cho xã hội được. Từ lâu đến giờ vì anh hùng cá nhân đó mà con người chém giết nhau. Trên thế giới này, nước này yên thì nước kia chém giết, nước kia chiến tranh. Không bao giờ có một nước nào yên, cũng bởi vì anh hùng cá nhân này, nếu anh hùng tập thể thì không bao giờ có sự giết chóc.
Đạo Phật thì không có anh hùng, cho nên ông Phật đâu có nói rằng ổng là người ngon đâu. Trước ông có 7 đức Phật, sau ông còn có đức Phật Di Lặc. Cho nên một đạo Phật mà có nhiều giáo chủ như vậy tức là sự khiêm nhượng của con người, như vậy mới chính là đạo Phật.
Muốn xả tâm vô lượng danh ta phải dùng pháp hướng Như lý tác ý nhắc tâm:
"Danh là một dục lạc ảo giác, nuôi lớn ngã mạn, khiến tâm ta thường đau khổ, hay tranh cãi, lý luận, giận hờn phiền não. Ta hãy xả bỏ, từ bỏ, viễn ly, chẳng mong cầu danh gì cả, chỉ biết tu hành thanh tịnh tâm để ra khỏi sanh tử mà thôi."
Chúng ta chỉ biết giải thoát mà thôi, không cầu ai gọi mình là Phật, là viện chủ, viện trưởng gì hết. Không cần biết ai gọi mình là chơn tu hay không chơn tu nữa. Chỉ biết làm sao làm chủ được sanh tử, chấm dứt được luân hồi của mình mà thôi. Câu ám thị mình như vậy đó. Câu hướng tâm tác ý như lý như vậy để chúng ta xả cho sạch cái danh. Chớ cái danh nó ngầm lắm, nó ngầm ở trong tâm chúng ta, nuôi cái ngã chúng ta dữ lắm. Chúng chưa bộc lộ ra chứ khi chúng ta ngồi lên được một cái ghế danh rồi thì phải biết nó như thế nào. Cho nên hiện giờ Thầy chưa ngồi trên cái ghế danh, Thầy đã sớm xa lìa nó, không cho nó lôi Thầy xuống, không cho nó nhận Thầy xuống cống. Bằng không thì những lời Thầy đang nói ở đây không khác gì Thầy chửi Thầy chứ không ai xa lạ hết, bởi vì Thầy không thực hiện đúng những lời Thầy đã nói ra cho quý thầy nghe, khi ngày nào đó Thầy nhận danh là Viện trưởng thì người ta sẽ nhận Thầy xuống lỗ cống liền.
Câu hướng tâm thứ hai:
"Danh là tên giặc hão huyền không có thật. Nó thường lôi cuốn tâm ta tỏ ra những hạnh xấu, hiu hiu, tự đắc, tự cao, tự đại, cao ngạo. Ta hãy xả xuống hết không còn một cái danh gì trong ta. Ta chỉ là một con người như bao con người khác."
Câu ám thị này nhắc nhở mình. Mình chỉ như mọi người khác, bình đẳng như mọi người khác, như những người nhỏ nhất, hạ tiện nhất, giai cấp nhỏ nhất ở trong thế gian này. Mình cũng chỉ là những con người đó. Nhắc như vậy cho nó thấm nhuần, hàng ngày phải đặt niệm trước mặt mà hướng tâm, không khéo hở ra một chút thì bản ngã chúng ta đồ sộ lên, nó chạy theo cái danh đó.
Đó là những câu hướng tâm thực tế và cụ thể giúp quý thầy xả cái tâm danh của quý thầy, cái tâm danh đương đeo đẳng ở trong lòng của quý thầy. Người tu sĩ của đạo Phật chúng ta đã biết mặt 5 thứ dục lạc này, trong đó, cái danh không phải là dễ xả, nó rất mạnh, mạnh hơn tất cả những cái khác. Có ai không muốn danh của mình hơn mọi người? Có ai không muốn mình hơn người? Những cái đó là cái danh chứ không phải cái gì khác. Cho nên biết rõ như vậy thì hàng ngày phải siêng năng tác ý. Dùng tác ý đập cho mạnh những đối tượng danh này cho nó nhẹp, cho nó tiêu, cho nó đoạn tận, cho nó diệt trừ, cho nó không còn ngóc đầu lên được nữa, cho nó chết luôn. Như vậy chúng ta mới có cơ duyên thành được một con người giải thoát hoàn toàn, không còn bị cái danh sai chúng ta làm những điều nô lệ.
Đây, Thầy dùng pháp hướng Như lý tác ý về danh:
"Danh là một thứ dục lạc vô hình thu hút và cám dỗ con người rất mạnh, nuôi lớn ngã mạn, cống cao, do đó sinh ra ngũ triền cái tham sân si mạn nghi. Năm triền cái này trói buộc chúng ta muôn đời muôn kiếp sống đau khổ. Vậy ta hãy lánh xa từ bỏ, từ khước, viễn ly tất cả các loại danh."
Đó là câu hướng tâm, câu trạch pháp để chúng ta như cái lý này mà tác ý ra làm cho chúng ta mãi mãi xa lìa những cái danh, những cái lợi, những cái ăn.
"Danh dục lạc có một ma lực vô hình lôi cuốn và cám dỗ con người vào chỗ sanh tử luân hồi. Ta phải từ giã, từ khước, từ bỏ, lánh xa, viễn ly danh dù bất cứ trường hợp nào."
Nghĩa là bất cứ trường hợp nào dù nhỏ, lớn chúng ta đều phải nhận diện ra nó để xa lánh nó. Nhiều khi nó qua trường hợp khác, nó làm cho chúng ta không thấy đó là cái danh,do vậy chúng ta bị nó gạt. Cho nên đức Phật dạy khi có danh, có lợi, có sự cung kính, chúng ta hãy lánh mặt. Lời Phật dạy, Thầy khắc ghi trong lòng, nhớ mãi muôn đời không bao giờ Thầy quên. Cái ma danh, Thầy biết nó rất mạnh.
"Người tu sĩ lãnh đạo tăng đoàn mà đón danh lợi vào chùa là đón rắn độc. Rắn sẽ cắn chúng tăng chết hết. Vậy người lãnh đạo tăng đoàn phải xa lánh, từ bỏ, từ khước danh lợi để cứu lấy chúng tăng, để cứu lấy Phật giáo."
Đó là câu nhắc nhở cho những người lãnh đạo, những người tu như Thầy bây giờ. Đó là câu ám thị, ám thị cho Thầy đó. Cho nên câu này đã nhắc đi nhắc lại Thầy rất nhiều. Không khéo thì dẫn danh dẫn lợi vô đây cắn quý thầy chết hết, không có người nào sống đâu. Đó là những điều mà Thầy đã thấy xa, chứ không phải thấy gần đâu. Không phải đợi khi rắn độc danh cắn chết hết cả đám, rồi mới bật ngửa ra đó. Thấy xa như vậy cho nên quý thầy không bị rắn cắn.
Đây là xả vô lượng tâm danh dục lạc thế gian. Quý thầy phải hằng ngày một lần hai lần, ba lần, bốn lần tu tập như lý tác ý trau dồi tâm mình. Phải xả cho sạch danh lớn, danh nhỏ. Vì danh là vô hình, vi tế rất khó xả nên quý thầy phải đề cao cảnh giác, siêng năng tu tập thì mới xả vô lượng tâm danh này được. Xả nó không phải dễ đâu, cho nên quý thầy phải cảnh giác, siêng năng, phải thường hằng tác ý. Nó móng một xíu quý thầy hổng thấy nó đâu, chừng khi nó lộ tướng lộ hình thấy được thì ôi thôi nó đã cắn mình rồi.
Khi xả xong vô lượng tâm danh dục lạc này được thì thân tâm quý vị thênh thang, nhẹ nhàng, an lạc với đời sống ba y một bát giải thoát, hoàn toàn Niết bàn tại thế. Nghĩa là xả cái tâm danh rồi quý thầy mới thấy được nó. Tâm danh lợi này còn, thì dù quý vị ở núi cao khổ hạnh tối đa, tâm hồn của quý vị cũng nặng như treo đá. Thí dụ như thầy Chơn Trí về ở trong núi cao trắc trở đó mà cái tâm danh của thầy không xả được thì dù thầy ở trong núi đó, tâm của thầy cũng như treo đá chứ không nhẹ nhàng an lạc gì đâu.
Quý thầy nên lưu ý năm thứ dục lạc lớn dễ xả. Năm thứ dục lạc nhỏ tuy rằng vật chất tầm thường, một cuốn kinh sách, một bài thơ, một bài kệ, một bài văn, một kiến thức Phật pháp, một kiến chấp, một chai dầu nhỏ, một cục xà bông, một cây kem, một bàn chải, một cây kim, một sợi chỉ đều là ngũ dục lạc nhỏ, khó xả lắm quý vị. Hãy đề cao cảnh giác, hết sức thận trọng. Xem thì rất thường mà xả thì rất khó. Coi chừng những vật dụng xung quanh quý vị, coi chừng nó nhỏ không ra gì chứ nó trói buộc quý vị lắm đó. Thầy giảng như vậy thì quý thầy phải để ý từng chút từng chút. Nếu là một người tu sĩ thì phải xả cho thật sạch. Một vật nhỏ còn dính thì vật lớn cũng sẽ dính. Nó không tha quý vị đâu. Bởi vì nó là một sức cám dỗ của ngũ dục lạc. Năm thứ dục lạc cám dổ rất mạnh, một vật nhỏ mà còn dính là quý thầy bị tiêu đó, chứ đừng nghĩ rằng quý thầy giải thoát. Thấy mình chùa không to, tháp không lớn, ở chòi tranh vách lá, ở rừng, ở núi, ở hang nhưng mà còn hai cây kim là quý vị đã bị dính, còn một cuộn chỉ to là quý vị đã bị tiêu, còn hai cái y là quý vị đã bị tiêu, chứ không phải tưởng đó là chuyện nhỏ, nó tầm thường. Chuyện nhỏ đó còn là còn nuôi cái mầm chạy theo dục lạc đó.
Vì thế hôm nay Thầy ẩn bóng để xả vô lượng tâm này cho thật sạch như một người đã chết bỏ xuống hết. Bây giờ sanh đã tận, phạm hạnh mới xong, những việc làm Thầy đã làm hết, không còn trở lui đời sống này nữa. Bây giờ quý thầy mới hiểu được cái chỗ ẩn bóng của Thầy chứ gì. Đó là mục đích của Thầy xả sạch, đó là xả tâm vô lượng sạch đó. Xả vô lượng cho sạch, mà bây giờ mình còn như thế này là mình chưa xả sạch, phải không? Các thầy thấy rõ Thầy bây giờ chưa xả sạch: chưa xả đồ chúng, chưa xả cái chùa mình nè, chưa có ba y một bát, như vậy là chưa xả sạch. Nó còn vi tế, coi chừng cái vi tế này nó sẽ trở thành cái lớn của nó đó. Cho nên ở đây thấy rất rõ. Qua những bức thơ của thầy Thiện Thiền, thầy chưa nhận ra được cái ý chỉ của Thầy cho nên thầy nghĩ rằng phải làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, phải làm Bồ Tát hạnh. Nhưng Bồ tát hạnh là tâm chưa xả sạch.
4.- XẢ TÂM THAM ĂN
Bây giờ đến phần xả vô lượng tâm ăn. Cái ăn cũng vô lượng lắm bởi vì ăn món ăn này, ăn món ăn kia, ăn món ăn nọ, đủ thứ hết. Bởi vì cái ăn, lúc ăn đường, lúc ăn bánh. Nếu thèm một chút là chúng ta bị ăn lôi cuốn đó. Cho nên người ta làm đủ loại bánh, lúc thì làm bánh mùi này, lúc làm bánh mùi kia, lúc thì làm nó ngọt, lúc thì làm lạt. Rồi thực phẩm ăn hàng ngày cũng vậy, cơm thì cơm chiên, cơm xào, cơm chưng, cơm nấu đủ loại. Nào là cơm nấu bằng nước dừa, cơm nấu bằng nước này nước kia để cho thay đổi khẩu vị. Do đó chúng ta phải xả vô lượng thực phẩm ăn này, cho nên nói xả vô lượng tâm ănlà xả vô lượng tâm háo ăn, tâm thích ăn ngon, tâm thích đủ mọi loại. Phải xả nó đi, nhưng mà xả không có nghĩa là để chúng ta ăn muối. Chúng ta xả nghĩa là để cho cái ăn không lôi cuốn chúng ta, không để chúng ta đắm đuối nó, như vậy là điều kiện chúng ta xả cái ăn.
Ăn là một dục lạc lớn trong ta. Thân ta phải ăn mới sống. Nhưng ăn lại là một dục lạc lớn. Ăn mà còn cầu ngon, chê dở, thì đó là dục lạc ăn đã lôi cuốn ta, nghĩa là mình thấy ngon thấy dở đó là mình đã bị dục lạc rồi. Ăn mà còn cầu bổ, cầu béo, cầu mập thì đó là bị dục lạc ăn cám dỗ chúng ta rồi. Chúng ta ăn vốn là để sống, để giải trừ bệnh đói chớ không phải để cho mập cho béo. Khi mình mập béo khỏe mạnh là mình không chết sao? Có người nào mập béo khỏe mạnh mà không chết? Cho nên ăn nghĩ cho nó bổ, cho nó mập, cho nó béo để cho nó sống trường thọ, thì điều suy nghĩ đó là điều lầm lạc, hiểu sai.
Phật nói cái thân này là vô thường, nó không thể nào kéo dài cái mạng sống nó quá số thời gian được. Mặc dù chúng ta ăn có đủ chất bổ nhưng nó cũng chỉ duy trì sức khỏe chứ không sống thêm một thời gian nào.
Ăn mà thấy ớn, thấy ngán, nuốt không vô đó cũng là dục lạc ăn cám dỗ, chớ không phải nói chúng ta thấy ngon là nó cám dỗ đâu, mà thấy ớn, ăn không vô cũng là bị cám dỗ rồi đó. Ăn mà thấy ưa thích là bị dục lạc ăn cám dỗ. Ăn mà không cầu ngon, không chê dở, không ngán, không ớn, không chê, là dục lạc ăn không cám dỗ. Chúng ta phải phân biệt. Chúng ta có đồ ăn ngon mà chúng ta không thích, chúng ta ăn dở mà chúng ta không ngán, chúng ta không ớn thì đó là dục lạc ăn không cám dỗ. Ăn để sống. Chúng ta phân biệt được câu này để chúng ta hiểu rằng khi chúng ta ngồi ăn mà thức ăn ngon thì chúng ta thấy cũng như khi ăn món ăn dở, chúng ta không tham, không ngán, không ớn gì hết thì đó là cái ăn của chúng ta không bị dục lạc ăn cám dỗ.
Tóm lại, ăn là thứ dục lạc ghê gớm. Thực phẩm tiếp xúc với vị giác của chúng ta gây sự cám dỗ lôi cuốn rất mạnh. Người thế gian phàm phu chưa học Thánh pháp và Tùy pháp nên đều bị ngã gục trong mặt trận đồ ăn uống này cám dỗ. Nghĩa là mọi người ở trong thế gian đều bị sự ăn uống cám dỗ lôi cuốn, ngã gục trên mặt trận cám dỗ này chứ không có người nào thoát ra khỏi được. Chỉ có những bậc tu hành đúng giới luật của Phật mới thoát ra khỏi sự cám dỗ của ăn uống. Chứ còn lơ mơ là người nào cũng bị dính hết. Các thầy thấy rất rõ lâu ngày không ăn đường, không có gì hết thì thấy nó thèm rồi, lúc bấy giờ là lúc mình chiến thắng lại chất ngọt đó. Nếu không, khi thấy người ta mời một ly sữa hoặc một ly nước ngọt là nghe run người rồi, thèm quá chảy nước miếng rồi, đó là cái ăn cám dỗ. Có nhiều người thích me chua, khi nghe người ta nói đến me thì nước miếng chảy ra ròng ròng rồi. Đó là cái gì? Cái đó là cái cám dỗ của cái chất chua. Nó làm cho chúng ta chảy nước miếng ra, đó là nó làm cho chúng ta thích, nó cám dỗ chúng ta. Chúng ta biết cái ăn có sự lôi cuốn rất mạnh. Ngay khi nghe cái tiếng thôi chứ chưa thấy người ta nhai nữa, là nước miếng mình chảy lau hoài không hết. Đó là cái thèm ăn kích thích, nó làm cho chúng ta thèm. Nó là một sự thật. Nó có sự cám dỗ rất mạnh, nó làm cho chúng ta khao khát, thèm muốn dữ lắm. Trong thân của chúng ta có tính chất đó như vậy.
Cho nên người tu sĩ đạo Phật chúng ta chiến thắng lại nó. Không thèm. Mà không thèm thì chúng ta phải làm sao? Chúng ta phải hướng tâm Như lý tác ý, ám thị nó. Cho nên thấy người ta nhai me mà nước miếng mình không chảy là mình đã thành tựu rồi đó. Còn khi thấy người khác nhai me mà mình ngồi đây chảy nước miếng thì pháp tác ý chưa thành tựu đâu, pháp tác ý của mình chưa viên mãn đâu, phải tập nữa, phải tu nữa. Một ly nước ngọt, một ly sữa, một cái bánh, một cái kẹo, một trái cây rất tầm thường mà quý vị không khéo giữ gìn là quý vị phạm lỗi ăn uống phi thời. Bị cám dỗ mà không biết còn lý luận che đậy tội lỗi. Thậm chí một viên thuốc vitamin C chua chua ngọt ngọt và các loại thuốc khác có hình thức như kẹo để chống ho, chống viêm cổ mà đặt nó vào miệng để ngậm còn phạm tội phi thời thay huống là theo dục lạc, đã bị cám dỗ bởi vị giác của quý vị. Đó, một viên thuốc thôi, nó ngọt ngọt chua chua, nó làm kẹo the này kia nọ mà bỏ vào miệng phi thời thì ngay đó quý thầy đã bị phạm phải lỗi ăn phi thời. Thầy kết luận như vậy để cho quý thầy thấy rằng sự tu hành chúng ta phải chiến thắng tận cùng, không để chúng ta chạy theo vị giác cám dỗ chúng ta khi tiếp xúc với thực phẩm. Và thực phẩm tức là ăn.
Người tu sĩ phải cảnh giác đến mức độ đó như vậy mới thấy được sự giải thoát thân tâm mình. Nó lý luận là bây giờ chúng ta khô cổ này, chúng ta phải ngậm cho nó. Cũng như quý thầy làm ly nước chanh đường để cho Thầy thông cổ. Đó là cái lý luận để che đậy, chứ Thầy nói suốt ngày Thầy có uống ly nước chanh nào, nhưng mà Thầy có khô cổ đâu. Nếu cứ lát nhấp chút, lát nhấp chút thì để nuôi dưỡng vị ngọt, vị chua cho khoái khẩu chớ đâu phải là cái gì khác hơn. Tức là lý luận để nuôi lớn cái dục chứ không phải gì hết. Cho nên gọi là xả tâm vô lượng thì phải thấy được những cái vi tế của nó, thấy được sự che đậy vi tế của nó, trong khi chạy theo dục lạc thế gian mà không lường trước được những tai họa sau này thì tất cả những cái dục lớn đều thể hiện ra hết. Từ phi thời một viên thuốc nhỏ mà không chận đứng, không chấm dứt thì chúng ta sẽ bị tất cả những vật cám dỗ khác lôi cuốn hết.
Người tu sĩ cảnh giác như vậy, đề phòng như vậy, phòng hộ 6 căn của mình như vậy mà tu còn khó khăn thay, huống hồ những kẻ không phòng hộ. Thử hỏi như một người tu hành không phòng hộ 6 căn mà ra chợ nhiếp thiền định thì thiền định làm sao được. Người ta sinh ra, ăn để sống chứ không phải sống để ăn. Thế mà kẻ không hiểu pháp thánh hiền, không tùy Thánh pháp nên trở thành sống để ăn. Chúng ta là những người hiểu được pháp Thánh hiền thì chúng ta biết ăn là để giải trừ bệnh đói chứ không phải ăn để ngon để ngọt nữa. Người phàm phu không biết pháp cho nên sống để ăn. Bây giờ họ sống ăn cho đã đi, ăn cho đầy đi, ăn cho ngon đi, chạy theo dục lạc ăn cho đã đi, nghĩa là họ không biết cái gì hết, miễn món ăn nào ngon trên thế gian này là phải mua ăn cho được, thì những người đó là những người chạy theo dục lạc. Người tu sĩ Phật giáo phải làm chủ cái ăn, không được ăn phi thời. Ăn uống phi thời là phi phạm hạnh, là chạy theo dục lạc, mà chạy theo dục lạc ăn là ngạ quỷ, là coi như mình là loài ngạ quỷ, là quỷ sa tăng.
Phần đông tu sĩ Phật giáo hiện giờ từ Đông sang Tây, từ Nam sang Bắc, từ trên xuống dưới đều bị quỷ dục lạc ăn cám dỗ và lôi cuốn xuống địa ngục tất cả. Không khắc phục được ma dục lạc ăn thì làm gì tu tập chánh thiền, chánh định được? Tu tập sai một ly hào là cách xa đạo giải thoát một ngàn dặm. Đi tìm đạo giải thoát mà trói mình trong ăn uống thì giải thoát ở chỗ nào? Người ở thế gian bị dục lạc ăn trói buộc đã đành, người tu sĩ Phật giáo là đạo giải thoát mà bị trói buộc vào dục lạc ăn uống thì có phải xấu hổ vô cùng, vô tận không?
Ăn mà không giải thoát thì giải thoát cái gì đây? Giải thoát được cái ăn là giải thoát được sự sống chết. Thầy nói ở đây là sự thật. Một người nhập thiền định là người ta giải thoát được cái ăn, người ta không ăn mà người ta không chết. Đó là giải thoát được cái ăn chớ gì. Rồi người ta lại phục hồi cơ thể người ta sống lại người ta ăn. Thì như vậy là người ta đã làm chủ được sống chết. Còn mình không giải thoát được cái ăn thì làm sao gọi là mình làm chủ sống chết? Cho nên cụ thể rõ ràng, không thể nào chối cãi được lời này. Thầy nhắc lại: giải thoát được cái ăn là giải thoát được sự sống chết. Cụ thể thứ nhất cho chúng ta thấy: Một người tu thiền định mà ngồi 7 ngày không ăn uống là giải thoát được 7 ngày sống chết. Người ngồi thiền định mà nhập được một tháng không ăn uống là người đó đã làm chủ sống chết được một tháng. Mà người nhập thiền định mà không ăn uống một năm là người đó làm chủ sống chết trong một năm. Cái đó nó quá rõ ràng. Có cụ thể như vậy, nghĩa là bây giờ chúng ta làm chủ được sống chết trong một ngày là chúng ta không ăn một ngày mà chúng ta không chết thì đó là làm chủ được sống chết, mà 2 ngày, rồi 3 ngày, 7 ngày, 1 tháng, 2 tháng,… điều đó chứng minh cụ thể không thể nào ai chối cãi được. Còn bây giờ ông nói thiền định gì mà ngày nào cũng ba bữa thì chắc chắn là ông ta không làm chủ sống chết được đâu.
Đó, quý thầy hiểu rõ được con đường thiền định của đạo Phật thực tế và cụ thể chứng minh qua chỗ ăn của quý vị. Và ăn là một thứ dục lạc rất nặng ở trong thân con người. Vì có thân phải có ăn. Cho nên ăn như thế nào để đúng cách là người tu sĩ, ăn như thế nào không đúng cách của người tu sĩ. Người ta tuy tu nhưng cái ăn người ta chưa đúng cách của người tu sĩ thì chưa phải con người tu giải thoát. Tại vì người tu sĩ nhập định không ăn uống mà sống, đó là giải thoát cái chết, rồi phục hồi ăn uống trở lại, đó là làm chủ cái sống. Người tu sĩ nhập thiền định thì người ta làm chủ được cái này rõ ràng, ở đây quý thầy cũng sẽ lần lượt chứng minh điều đó. Còn làm chủ bệnh, già ưu bi sầu khổ là chỗ nào? Là chỗ lìa 3 sự dục lạc cám dỗ ở trên kia: danh, sắc và lợi. Ở đây lìa cái ăn là chúng ta làm chủ được sự sống chết, mà lìa được chỗ ưu bi sầu khổ, phiền não đau khổ giận hờn thì quý vị phải lìa 3 sự dục lạc ở trên, tức là danh, sắc và lợi. Nói cho rõ ra từ chỗ bỏ tài sản nhỏ, tài sản lớn, bà con quyến thuộc nhỏ, bà con quyến thuộc lớn, từ bỏ danh thế gian nhỏ, quyền tước lớn, quyền tước nhỏ, vật chất lớn, vật chất nhỏ thế gian, chỉ sống tri túc thiểu dục một bát ba y mà thôi, đó là chỗ đức Phật dạy: “Sanh đã tận thì mới giải thoát được sanh già bệnh chết, ưu bi, và chấm dứt luân hồi tái sanh”.
Đó, đức Phật cũng dạy chúng ta sanh đã tận, tức là chúng ta phải xả bỏ 3 thứ dục lạc kia đi, tức là danh sắc lợi đó. Chúng ta xả bỏ ba thứ đó đi, ba thứ đó là những sợi dây triền phược trói buộc chúng ta, cho nên chúng ta xả bỏ. Xả bỏ 3 thứ dục lạc tức là sanh đã tận thì con đường giải thoát của chúng ta không còn luân hồi nữa. Chấm dứt luân hồi. Chúng ta thấy rất rõ ràng và cụ thể.
Đứng ở trong góc độ của 5 thứ dục lạc này thì chúng ta đã phân được ra chỗ nào làm chủ tâm không còn tái sinh luân hồi, chỗ nào làm chủ được thân sống chết, cụ thể rõ ràng. Tại sao vậy? Tại vì người tu sĩ nhập định không ăn uống mà sống đó là giải thoát cái chết, rồi phục hồi ăn uống trở lại, đó là làm chủ cái sống.
5.- XẢ TÂM NGỦ
Bây giờ chúng ta tiếp tục xả cái ngủ, xả cái ngủ là xả cái cuối cùng. Năm thứ dục lạc thì cái ngủ là cái cuối cùng.
Ngủ là một thứ dục lạc trong năm thứ dục lạc khiến cho con người thích thú ham mê ngủ. Ngủ là một trạng thái ngu si mê muội, ngủ là một trạng thái bần thần dã dợt, lười biếng. Cho nên những người lười biếng là những người ham ngủ.
Ngủ có nhiều cấp độ. Ở đây quý thầy thấy trong trạng thái ngủ làm cho con người si mê lắm. Do đó mà đức Phật gọi là thùy miên hay vô ký. Đó là danh từ để chỉ cho người lười biếng, người hay ngủ, người ngu si, người không có thông minh. Cho nên gọi là hôn trầm thùy miên. Phải biết ngủ có nhiều cấp độ, không phải nó có một cái hôn trầm thùy miên không thì nó chưa đủ. Vì vậy Thầy muốn chỉ cho quý thầy thấy năm trạng thái đi vào trong cái gọi là ngu si.
Đó là:
- Thứ nhất là hôn trầm,
- Thứ hai là thùy miên,
- Thứ ba là hôn tịch,
- Thứ tư là vô ký,
- Thứ năm là ngoan không.
Năm trạng thái này là năm trạng thái mà người tu thiền thường gặp. Người tu thiền mà ngồi lâu thì lúc nào cũng dễ bị rơi vào một trong năm trạng thái này.
Hôn trầm thì như thế nào? Hôn trầm là người ngồi một lúc thì lại vô ký đi, quên mất đi rồi gục xuống một cái, rồi mới ngước đầu lên. Trạng thái gục xuống như vậy đó gọi là hôn trầm.
Thùy miên là như thế nào? Thùy miên là người đó ngồi cúi cái đầu xuống hoặc quẹo cái cổ qua một bên, rồi bị ngủ quên mất đi, ngủ say ở trong giấc ngủ. Đó là thùy miên. Thùy là ngủ, miên là tiếp tục miên man, miên mật ở trong đó, ở trong giấc ngủ quên đi, ở trong cái không biết đó thì gọi là thùy miên.
Thứ ba là hôn tịch. Hôn tịch là một lúc thì mê, một lúc thì tỉnh tỉnh, mơ mơ màng màng đó. Những người ngủ mà không say mà cũng không gục đó, lúc thì tỉnh lúc thì mê. Cũng như quý thầy tu về hơi thở. Lúc thì biết hơi thở, lúc thì không biết hơi thở. Đó gọi là trạng thái hôn tịch. Nó cũng thuộc cái loại ngủ đó. Khi vừa ngủ vừa mê vừa tỉnh thì cái đó gọi là hôn tịch.
Còn thứ tư thì thuộc loại vô ký. Vô ký là chợt quên đi. Thứ nhất là nó quên cái tâm cho nên lúc bây giờ vừa chợt quên thì nó mất cái tỉnh. Nó mất cái tỉnh thì niệm vọng tưởng xen vô liền. Cái đó gọi là vô ký. Quên rồi nó mới có niệm khác xen vô. Hoặc là nó quên, nếu cái thân nó quên đi thì khi có tiếng động hoặc cái gì đó làm nó giựt mình, hoặc là nó vừa quên vừa giựt mình. Thì đó, cái thân cũng vô ký.
Khi vô ký kéo dài thì vô ký trở thành trạng thái gọi là ngoan không. Nó mới chợt vừa quên thì đó là vô ký. Mà nó kéo dài một thời gian dài từ nửa tiếng hai, ba tiếng mà không ngơ, nó không giống như ngủ, không giống như thùy miên mà nó không ngơở trong đó thì